(Tiếp theo phần 1)
9. GIA ĐÌNH CHUNG THỦY, MÔI TRƯỜNG SỐNG THÁNH
(1) Bà Mẹ Can Trường
Ngày 17.9.1798, thời vua Cảnh Thịnh, Tây Sơn, một người anh hùng xứ Huế gục ngã: Thánh Emmanuel Nguyễn Văn Triệu. Pháp trường in vết máu đỏ của ngài. Trước đó, trên quãng đường từ khám đường đến nơi hành quyết, người ta thấy một bà cụ già đi bên cạnh phạm nhân để an ủi, động viên, khích lệ con can trường chết vì đạo Chúa.
Khi lý hình vừa hoàn tất phận sự: đầu của Emmanuel Triệu vừa rụng xuống, thì giáo dân nhất loạt ùa ra lấy bông và vải thấm máu của ngài. Bà mẹ của ngài tiến thẳng đến trước mặt quan:
“Bẩm quan, khi con tôi còn sống thì thuộc quyền của quan, nay con tôi đã chết, xin quan cho tôi được lĩnh xác mang về chôn cất, hay ít nữa được chiếc đầu.”
Quan truyền binh lính mang ngay chiếc đầu phạm nhân cho bà. Bà mẹ già bình tĩnh lấy vạt áo trước bọc đầu con lại, ôm siết vào ngực, giữa đôi bàn tay xương xẩu và đi bộ trên 10 cây số để trở về nhà.
10. HỌC MÃI, HỌC SUỐT ĐỜI LÀ KHIÊM TỐN
(1) Cha Đẻ Tiếng Việt
Không người Việt Nam chính hiệu nào mà lại không biết đến tên cha Đắc Lộ, một giáo sĩ người Pháp mà danh tính gắn liền với chữ quốc ngữ của dân tộc ta; nhưng thật rất ít người biết trong hoàn cảnh nào ngài đã làm nên một công trình vĩ đại như thế.
Ở đây, thiết tưởng ta nên nhắc lại những lời nói đầu tiên ngài ngỏ với dân bản xứ khi tàu vừa cập bến Cửa Bạng ngày 19.3.1627:
“Đây là tàu của người Bồ Đào Nha, những người danh tiếng lừng lẫy khắp phương Đông… Hiện giờ tàu của họ có chở một thứ hạt trai tuyệt đẹp và quí giá, ai muốn mua thì cả đời được giàu có hạnh phúc muôn thuở. Không nên sợ giá cao, vì chẳng ai nghèo đến nổi không đủ tiền để mua trai ấy.”
Tổ tiên chúng ta mới khấp khởi vui mừng, xin ngài ít là cho xem qua đôi ba hạt. Ngài trả lời:
“Hạt trai ấy mắt xác thịt không thể xem thấy được, chỉ có trí khôn hiểu được mà thôi. Hạt trai ấy chính là lề luật Thiên Chúa, một cái gì quí trọng hơn trân châu và hàng hóa Ấn Độ. Chúng tôi sẵn sàng giảng luật đó cho anh chị em, nên không ngại vượt biển băng ngàn đến đây.”
Lúc đó vào thời hai chúa Trịnh Nguyễn, một thời vừa có chiến tranh vừa có cấm cách, bắt đạo Chúa. Sự đi lại vô cùng khó khăn, nhất là đối với một ông Tây “da hồng mũi lõ”! Vì thế thường cha Đắc Lộ phải giảng dạy, làm lễ, cử hành các bí tích ban đêm. Còn ban ngày, ngài di chuyển bằng cáng: hai người gánh một chiếc võng, ngài nằm trong đó, lấy chiếu che lại. Dạo ấy, từ sông Gianh đến Phan Thiết chỉ có lưa thưa một vài giáo sĩ. Lắm lúc cả địa hạt rộng lớn ấy chỉ có một mình cha Đắc Lộ tung hoành. Ngài phải lẩn trốn nhiều vùng, phải âm thầm đi đi lại lại để củng cố giáo đoàn Đàng Trong. Mỗi lần ra đến Huế, ngài lại còn lo cho cả giáo dân thuộc địa phận Đàng Ngoài nữa. Các đại diện của giáo dân bên kia sông Gianh vào gặp ngài, chịu các phép bí tích, nhận chỉ thị để rồi trở về củng cố cuộc sống đức tin của các giáo hữu vắng bóng chủ chăn.
Khắp Đàng Trong, không chỗ nào mà không in dấu cha Đắc Lộ. Ba lần ngài bị phát giác phải đuổi về Macao, và mỗi lần như thế, đợi bầu khí hơi hơi lắng dịu ngài lại sắm sửa lễ vật sang dâng cho Chúa Nguyễn, đi theo ghe thuyền nhà buôn trở lại Việt Nam.
Không có văn phòng, quạt điện, máy điều hòa, thư viện, thiếu hẳn mọi tiện nghi tối thiểu, thế mà cha Đắc Lộ soạn thảo thành công cuốn “Phép giảng 8 ngày cho những người muốn chịu phép Rửa Tội mà vào đạo thánh Đức Chúa Trời” và cuốn tự điển: “Ba Thứ Tiếng Việt-Bồ-La” gồm cả văn phạm tiếng Việt, cách dùng chữ Latinh thay cho chữ Nôm, lối phát âm… Ngài đã mang về ấn loát tại nhà in Vatican vào khoảng năm 1651, làm nền tảng cho tiếng Việt ngày nay.
Dĩ nhiên, ngài đã căn cứ vào công trình của những người tiền phong như cha Buzomi chẳng hạn. Nhưng ngài đã có công lớn trong việc tổng hợp, phân tách từ ngữ, xác định văn phạm, phát âm và đưa tất cả đến tình trạng hoàn chỉnh để phục vụ Hội Thánh. Ngài đã thâm tín rằng: ngôn ngữ là khí cụ thiết yếu để đưa Tin Mừng đến cho mọi dân tộc, không phải chỉ trong chốc lát mà còn cho muôn vàn thế hệ mai sau. Chắc chắn phải có một tâm hồn hiếu học, một tinh thần tông đồ nồng cháy mới có thể kiên trì nghiên cứu, bảo quản và hoàn thành một công trình khó khăn như thế, giữa bao thử thách gian nan.
11. PHÁT TRIỂN MUÔN MẶT, PHỤC VỤ ĐÍCH THỰC
(1) Kinh Tế Phục Vụ Con Người
Cha Louis-Joseph Lebret (1897-1966), cựu sĩ quan Hải Quân, là một tu sĩ dòng Đaminh, đã có công khởi xướng và cùng với nhà chuyên môn giàu thiện chí khác (như cha: Th.Suavet, H.Quoist) lập nên một học thuyết, đồng thời cũng là một nhóm mang tên “Kinh Tế và Nhân Bản” (Économie et Humanisme) nhằm mục đích phát động một nền kinh tế phục vụ con người!
Sau khi nghiên cứu và đúc kết thành một học thuyết, một hệ thống thực sự, ngài đã cùng với các đồng chí cho xuất bản nhiều sách báo, vạch ra một đường hướng phục vụ thế giới mới mẽ, ai muốn hưởng ứng thì cứ vận dụng cách sáng tạo vào hoàn cảnh của địa phương mình.
Cha Lebret được mời du hành khắp thể giới (từ nhiều làng bên nước Pháp tới những xứ kém mở mang, từ trụ sở Liên Hiệp Quốc tới Hội Trường Công Đồng Vatican II) để trình bày đường lối của ngài về “Kinh Tế và Nhân Bản”. [ Chú thích của người tổng hợp: NGÀI ĐÃ TRIỂN KHAI CHƯƠNG TRÌNH NÀY TẠI VIỆT NAM HAI NĂM 1958-1959, THỜI CHẾ ĐỘ VNCH I].
Ngài nhấn mạnh rằng:
“Phải làm sao để vừa phát triển nền kinh tế, vừa phát triển con người toàn diện, vật chất cũng như tâm linh, và phát triển đồng đều trên mọi miền khắp thế giới.”
Ngài đã để lại lời cầu nguyện sau đây thật đáng cho chúng ta suy niệm:
“Lạy Chúa, lỗi tại con,
Tại con không chân thành yêu anh chị em con,
Tại con không cảm thấy đau khổ trước những khốn cùng của anh chị em con,
Tại con hay thờ ơ lãnh đạm bên cạnh người xấu số,
Tại con đã khinh dể nhiếu người, nhất là những người nghèo hèn, những người có địa vị kiến thức kém hơn con,
Tại con không giữ đúng như lời cam kết,
Tại con không ăn ở dễ dãi với kẻ khác, không sẵn sàng với kẻ khác,
Tại con không biết tìm hiểu hoàn cảnh của người ta,
Tại con đã từ chối một sự giúp đỡ, theo tính ích kỷ của con,
Tại con không ra tay xoa dịu một vết thương mà lẽ ra con phải làm,
Tại con chỉ tới lui kết nghĩa với những người mà con mong sẽ đem lại lợi ích cho con,
Tại con đã làm tổn thương người ta nhiều vì lời ăn tiếng nói của con,
Tại con đã hạ bệ những kẻ đối nghịch với con,
Tại con đã láo xược và ăn ở bất công,
Tại con đã làm gương xấu quá nhiều …,
Nên anh chị em con đã bị tổn thương nhiều vừa hồn vừa xác.
Lạy Chúa, lỗi tại con!!! Xin Chúa tha thứ cho con.
Và con cũng xin Chúa tha thứ cho những anh chị em vì lỗi con mà đã sống bất xứng”
12. DẤN THÂN QUÊN MÌNH VÌ NGHĨA CẢ
(1) Thí Mạng Cho Người Hủi Việt Nam
Trong nước Việt Nam cũng như trên thế giới, ngườì ta nghe nói niều đến nhà phung Quy Hòa, ở ngoại ô thị xã Qui Nhơn, nhưng thử hỏi mấy ai biết đến vị sáng lập nhà phung ấy! Vị đó là cha Paul Maheu, một linh mục người Pháp đã từ giã quê hương thân yêu với cuộc sống tiện nghi, để chôn đời mình giữa đám người xa lạ, mắc phải thứ bệnh khủng khiếp nhất trong loài người.
Thật thế, bệnh phung cùi là một thứ bệnh khủng khiếp nhất. Ai mắc nó phải chịu một cơn hấp hối trường kỳ, dai dẳng. Thân thể họ luôn luôn nhức nhối, lở loét, xông mùi thối tha nồng nặc. Dung nhan thì dần dần bị tàn phá, đặc biệt là khuôn mặt và chân tay, ai trông cũng xa lánh và nhờm tởm. Xã hội quá khiếp sợ họ nên thường tìm cách xua họ vào một nơi khuất mặt và như muốn lãng quên đi kẻo mất vui cuộc sống.
Paul Maheu thì lại khác. Là một linh mục Công giáo, ngài đã dấn thân vào nếp sống của người cùi, chọn họ làm con cái quý yêu cật ruột, sống trong một ngôi nhà bé nhỏ ngay giữa làng phung để đêm ngày săn sóc họ, lo cho họ đầy đủ vật chất cũng như tinh thần.
Phía sau nhà có một cái kẻng. Mỗi lần nghe tiếng kẻng đánh, cha vội đi ra và dịu dàng hỏi:
“Có việc gì vậy con? Vào đây!”
Ngày nào cũng thế. Điệp khúc ấy cứ vang lên đều đặn, và con tim của những người phung hủi hân hoan đón lấy. Rồi đến lượt họ, họ cũng cất lên những lời tâm sự, vì trong cảnh cô đơn buồn tủi ấy, chỉ mình cha Maheu là người thân tín duy nhất của họ thôi.
“Thưa cha, con đau buồn quá! Đêm nay con mới rụng thêm một đốt ngón tay nữa. Con đã lượm được, nè đây cha xem!”
Cha Maheu cầm lấy đốt lóng tay, thương tiếc như chính một phần thân thể của mình. Ngài ôm choàng lấy bệnh nhân, ngẹn ngào thốt lên những lời an ủi động viên tinh thần họ:
“Tội nghiệp con quá! Ta hãy cứ chiến đấu với bệnh tật, cứ dùng thêm thuốc để chặn đứng cơn bệnh đi…”
Đối với cha Maheu, không gì quí bằng các người phong hủi. Ngài không thể rời họ một ngày, không thể không tìm cách khen lao họ khi có dịp. Mỗi khi khách từ xa tới thăm, ngài thường mời ở lại dùng bữa. Trong lúc ăn, miệng ngài liên tiếp giới thiệu:
“Mời dùng trứng này, do gà của người phung nuôi đấy! Mời dùng cá này cũng của người phung mới câu hồi sáng; còn đây là xà-lách cũng do tay người phung trồng đấy! Tốt lắm!” Vừa mời, ngài vừa ăn một cách ngon lành trong lúc khách thì quá khiếp sợ, chẳng dám dùng một tí gì, chứ đừng nói chuyện ăn với uống.
Không mấy năm sau, cha Maheu đã trở thành người phung thực sự. Càng đau đớn càng có dịp để chia sẻ cuộc đời của họ, họ càng yêu mến trọng kính ngài. Và rồi một hôm, người hùng dấn thân đã nằm xuống, xác ngài được chôn cất ngay giữa làng cùi bên cạnh những người con thân yêu nhất.
(2) Hóa Nên Người Trung Hoa Để Chinh Phục Người Trung Hoa
Tuy là người Bỉ, cha Vincent Lebbe (1877-1940) đã tình nguyện dấn thân sang truyền giáo ở Trung quốc. Suốt bao năm ngày, ngài luôn miệt mài thao thức, suy tư và cầu nguyện trước vấn đề khó khăn: Làm sao để dấn thân truyền giáo và phục vụ xã hội Trung Hoa cho đắc lực. Thế rồi, dưới ánh sáng soi dẫn của Chúa, câu trả lời đã đến với cha:
“Muốn đến với người Trung Hoa phải trở nên người Trung Hoa thực sự.”
Cha Vincent Lebbe đã triệt để dấn thân theo đường hướng ấy, từ lối cắt tóc, để râu, ăn mặc cho đến cách suy tư, cử hành phụng vụ, giảng dạy giáo lý (ngài xin nhập tịch Trung Hoa và lấy tên Lôi Minh Viễn), tất cả đều nhắm một mục đích là làm sao để vừa phù hợp với tâm hồn người Trung Hoa, vừa bảo tồn căn nguyên bản chất Kitô giáo. Và trong tinh thần ấy, ngài đã thành lập một hội dòng lấy tên “Anh em hèn mọn của Thánh Gioan Tẩy Giả” để vận dụng cách sáng tạo nếp sống khổ tu vào hoàn cảnh cụ thể của xã hội và tâm hồn người Trung Hoa và áp dụng nguyên tắc truyền giáo của ngài.
Tại nước Bỉ, quê hương ngài cũng có rất nhiều người sùng mộ tinh thần ấy. Họ đã lập nên một Tu hội truyền giáo cho các linh mục viết tắt là S.H.H. tạm gọi là “Hội Trợ Tá của các xứ truyền giáo”. Họ cũng lập một Tu Hội cho nữ giới viết tắt là A.F.I. (Nữ Trợ Tá Quốc Tế)
Tinh thần cốt yếu của cha Lebbe là gì?
Đó là không đi theo phương pháp bấy lâu: đến một quốc gia, nhận trách nhiệm coi sóc một giáo phận hoặc một giáo xứ, đứng đầu hàng giáo sĩ địa phương… mà là theo một phương pháp mới: đến một quốc gia, một giáo phận do hàng giáo phẩm bản xứ quản trị và làm những trợ tá phục vụ dưới quyền họ, cho dù họ kém khả năng hơn mình. Đối với những năm đầu của thể kỷ XX này, chủ trương trên thật là mới mẻ, độc đáo có tính chất cách mạng. Vì trước đây, tại các xứ truyền giáo, hầu như chẳng có một vị Giám mục bản xứ nào, huống nữa là sự kiện các linh mục thừa sai đi làm trợ tá cho hàng giáo sĩ bản xứ. Quả là táo bạo!
Và còn táo bạo hơn nữa là sự việc sau đây: Trong một chuyến trở về công tác ở châu Âu, cha Lebbe đã sang Rôma xin yết kiến Đức Thánh Cha Piô XI, vị Giáo Hoàng được mệnh danh là “Giáo Hoàng của Công Giáo Tiến Hành” và “Giáo Hoàng của Truyền Giáo”.
Trong buổi triều yết, ngài đã trình bày với Đức Piô XI:
“Xin Đức Thánh Cha đặt các Giám mục bản xứ cho người Trung quốc.”
Đức Thánh Cha vui vẻ trả lời:
“Đó là điều cha mong muốn. Con thấy hàng giáo phẩm Trung quốc hiện nay có đủ khả năng nhận trách nhiệm lãnh đạo nhận các giáo phận không?”
“Thưa Đức Thánh Cha, con tin chắc là có. Với ơn Chúa họ sẽ chu toàn tốt trách nhiệm… Con thấy Tòa Thánh cần giao trách nhiệm cho hàng giáo sĩ bản xứ càng sớm càng tốt.”
Đức Thánh Cha hỏi ngay:
“Con có biết rõ linh mục Trung quốc nào xứng đáng được tấn phong làm Giám mục không?”
“Thưa Đức Thánh Cha có!”
“Biên tên cho cha ngay đi!”
Cha Lebbe liền lấy giấy bút ra, viết ngay liền một danh sách gồm tên 10 linh mục Trung quốc và đệ trình lên Đức Thánh Cha.
“Tốt lắm! Cha sẽ xúc tiến ngay việc này!”
Thật là một bất ngờ ngoài sức tưởng tượng. Cha Lebbe ra về, tâm hồn cảm động hân hoan. Đức Piô XI quả là một vị Giáo Hoàng đầy nhiệt tình và sáng suốt!
Ngày lễ Chúa Kitô Vua, 28.10.1926, chính Đức Piô XI chủ sự phong chức cho 6 Giám mục Trung quốc đầu tiên tại đền thờ Thánh Phêrô, trong số đó hầu hết đều nằm trong danh sách của cha Lebbe đề nghị. Lúc ấy tại một góc đền thờ, người ta thấy ngài quì gối âm thầm cảm tạ Chúa, vì đã cho ngài chứng kiến tận mắt điều ngài mong ước từ lâu. Sau Thánh Lễ, Đức Piô XI tiếp các Tân Giám mục Trung quốc tại phòng khác, tặng cho mỗi vị một chiếc dồng hồ quả lắc và truyền các ngài trước khi về nước, hãy đi khắp Âu châu để cho mọi người thấy được hàng Giám mục bản xứ. Thề rồi, tiếp sau các Giám mục Trung Quốc ngày 30.10.1928, Đức Piô XI cũng tự tay phong chức cho các Giám mục Nhật Bản tiên khởi địa phận Nagasaki, rồi các Giám mục Ấn Độ, Indonêsia…
Ngày 11.6.1933 Cha Gioan Baotixita Nguyễn Bá Tòng cũng được chính tay Đức Piô XI tấn phong làm Giám Mục Việt Nam tiên khởi.
Sau những tháng năm dấn thân phục vụ cho công cuộc truyền giáo, cha Vincent Lebbe đã nằm xuống (1940). Dân tộc Trung quốc coi ngài như một vị anh hùng quốc gia. Hội Thánh coi ngài như vị tiên phong của những công cuộc truyền giáo hiện đại. Thân xác ngài được chôn vùi ngay tại lòng đất Trung Hoa, để lại tấm gương sáng cho Kitô hữu thuộc đủ mọi thời.
13. CANH TÂN CHÍNH MÌNH VÀ QUANH MÌNH
Hoạt Động Canh Tân Của Đức Phaolô VI
… Riêng đối với Việt Nam, Đức Phaolô VI đã gọi là một “ngày đáng ghi nhớ” lúc ông Xuân Thủy, đại diện chính phủ của Việt Nam đến Vatican ngày 14.2.1973. Ba tháng sau, Đức Phaolô tiếp kiến ông Nguyễn Văn Hiếu, trưởng phái đoàn của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Chủ Nghĩa Xã Hội Việt Nam ở Hội nghị La Celle-Saint-Cloud. Trước đó vào tháng 2.1971, Vatican đã tiếp bà Nguyễn Thị Bình, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời và là Trưởng phái đoàn của Chính Phủ này tại Hội Nghị Paris. Đức Phaolô VI chỉ nói cách khiêm tốn về “một cuộc dấn thân theo sức chúng ta” để vãn hồi hòa bình chính đáng và lâu dài, bảo đảm cho con người được sống trong tự do hạnh phúc xứng với mọi dân tộc.
14. CUỘC SỐNG MỚI MUÔN ĐỜI TRONG CHÚA
(1) Bức Thư Trước Giờ Hành Quyết
Linh mục Trochu đã viết một cuốn sách rất công phu về Chân Phước Ven (Thánh Théophane Vénard). Trong sách đó có ghi lại rằng: đang lúc bị án tử hình vì đức tin và bị giam tại Hà Nội chờ ngày trảm quyết, thánh Ven đã viết nhiều bức thư nhờ giáo dân chuyển về cho gia đình. Trong số các thơ ấy, có mấy dòng sau đây, được thánh nữ Têrêxa Hài Đồng (là người bảo trợ tinh thần cho thánh nhân) chọn làm như của chính mình vậy:
“Thế gian chẳng còn gì làm vui sướng đời con nữa. Tâm hồn con đã được cởi mở rộng rãi. Những cái được người ta kêu là hạnh phúc ở trên đời, con cho là rơm rác hết. Lòng trí con đang bay về cõi thiên thai. Thời gian sắp mãn cuộc. Hồn con bình lặng như mặt hồ lặng lẽ hay như vòm trời xanh dịu. Con chẳng còn tiếc xót gì ở kiếp phù trần, chỉ khát khao mong mỏi về uống nước trường sinh cõi phúc…
“Không lâu đâu! Linh hồn con sắp được từ giã thế gian rồi. Cuộc đầy đọa sắp qua, những ngày giao chinh sắp hết. Con lên Thiên Đàng! Con đi đến chốn an nghỉ đời đời của các thánh, nghe những nhạc điệu du dương tai chưa từng nghe, ngắm những sự tốt đẹp nhất chưa từng ngắm, vui hưởng hoan lạc trái tim chưa từng hưởng… Nay con sắp đến giây phút ai ai cũng thiết tha mong đợi. Quả thật Chúa đã chọn kẻ bé mọn để mỉa mai những kẻ quyền hành thế gian. Con không dám cậy sức riêng con, một chỉ cậy sức Đấng đã đứng trên thánh giá mà chiến thắng mọi quyền hành hỏa ngục.
Con là hoa xuân, nay chủ vườn muốn hái đem về làm cảnh. Chúng ta hết thảy là hoa Chúa vun trồng trong vườn thế gian, sẽ có ngày Chúa hái về hết, nay hoa này, mai hoa khác, chày kíp gì cũng xong cả. Thân con là đóa hoa phù dung, dám xin mạn phép hồi hương trước.
Hẹn một ngày kia chúng ta sẽ cùng gặp nhau, tay bắt mặt mừng trên Thiên đàng, hân hoan trong vinh phúc trường cửu.”
Ngày 2.2.1861, thánh Ven gục ngã dưới lưỡi gươm của đao phủ tại pháp trường Cầu Giấy (Hà Nội) lúc vừa 34 tuổi. Dầu ngài bị ném xuống sông mãi hai tuần sau ngư phủ mới tìm thấy. Ai tin được trên đây là bức thơ tạm biệt gia đình của một tử tội!
15. GIAN KHỔ GẮN LIỀN VỚI VINH QUANG
(1) Nghệ Thuật Sống An Bình Trong Gian Khổ
Một tâm hồn thánh thiện nọ, sau khi trải qua bao ngày tháng gian khổ cũng như những giây phút thành công, đã để lại những lời nhắn nhủ, đồng thời cũng là những kinh nghiệm sống rất đơn sơ và hữu ích sau đây.
Nghệ thuật điều khiển lưỡi
Thánh kinh có nói: “Miệng lưỡi người khôn ngoan cất trong con tim. Trái tim kẻ dại bày ra ngoài miệng” (Huấn đạo 21, 26)
Hãy thường nghe hơn là nói, vì im lặng quí hơn nói. Nói ít thì khôn hơn nói nhiều. Nói ít mà nói đúng thì hay hơn nói nhiều nhưng nói bậy. Hãy chú ý: Nói đúng vấn đề thì hay hơn nói luôn miệng.
Những luật sau đây giúp điều khiển lưỡi chúng ta:
Suy nghĩ trước khi nói.
Biết nói bằng sự im lặng.
Cầm giữ miệng lưỡi khi trái tim đang xao xuyến.
Im lặng khi mình quá ưa nói.
Nói sau kẻ khác.
Đừng bao giờ nói chống đối kẻ khác.
Bao giờ cũng nói tốt kẻ khác.
Đừng bao giờ tìm cách tự bào chữa.
Lúc nào cũng nói năng khiêm tốn.
Không bao giờ nói trái sự thật.
Luôn luôn thận trọng trong lời nói.
Đừng bao giờ nói theo hứng.
Im lặng đừng nói những lời chua cay, khi trái tim bối rối và bị kích thích.
Trong câu chuyện, “khi gió thổi bốc lên thuận chiều”,
Hãy cầm hãm khuynh hướng “trút hết gan ruột ra”.
Cầm mình đừng nói những sai sót của bản thân.
Biết giới hạn như vậy sẽ tạo được một nguồn hạnh phúc mới mẻ.
Hãy kiểm soát giọng nói của bạn.
Đừng tìm biết tin tức vì tò mò.
Hãy nhớ lấy điều này là đừng phàn nàn về chuyện gì,
Đừng chỉ trích ai,
Đừng than trách hoàn cảnh nào,
Cũng đừng phê bình sự vật gì hết.
Dừng nói về mình, cũng đừng nói về những việc riêng của mình.
Nếu muốn nói về mình, thì chỉ tâm sự với một số rất ít người thôi.
Im lặng là bài học hay nhất.
Im lặng khi tức bực.
Im lặng khi bị chỉ trích.
Im lặng lúc bị từ chối.
Im lặng lúc thất vọng.
Im lặng lúc gặp cảnh vô ơn.
Im lặng khi cảm thấy lòng ghen ghét.
Im lặng lúc bị phản bội.
Im lặng khi được thỏa mãn.
Im lặng lúc đau khổ mọi nỗi.
Hình như không có thực hành nào giá trị bằng sự im lặng.
Im lặng cho ta thấy một sức mạnh tiềm tàng.
Im lặng thu hút được sự tín nhiệm.
Im lặng bảo đảm cho ta được sự kính trọng.
Người dè dặt đúng múc là người có dáng huyền bí, biểu lộ một vẻ tuyệt đẹp của tâm hồn.
Im lặng còn có một tính cách tích cực nữa.
Nhiều khi im lặng không nói lại là câu trả lời hữu hiệu nhất, thuyết phục lòng người hơn trăm bài hùng biện.
Cố gắng hơn tí chút.
Nhẫn nại hơn tí chút, để chấp nhận một người không hợp với tôi chút nào, nhưng tôi lại bó buộc sống với.
Kiên quyết hơn tí chút, để tiếp tục công việc này mà bổn phận đời tôi làm tôi cảm thấy chán ngấy.
Khiêm nhường hơn tí chút, để ở lại nơi Chúa dẫn dắt tôi tới, nhưng không mảy may phù hợp với ước vọng và chương trình của tôi.
Biết lẽ phải hơn tí chút, để chấp nhận người khác cùng với bản tính họ, thay vì đòi hỏi họ rập theo khuôn khổ tôi thích.
Khôn ngoan hơn tí chút, để đừng làm phiền lòng người khác và ít nhúng tay vào công việc của họ.
Can đảm hơn tí chút, để chịu đựng một biến cố đột ngột làm tôi mất bình an cách thâm sâu.
Tươi tỉnh hơn tí chút, để không tỏ ra tôi bị trái ý.
Bỏ mình hơn tí chút, để cố gắng tìm hiểu tư tưởng và cảm nghĩ của người khác. Trên hết mọi sự, cầu nguyện hơn tí chút, để kết hợp với Chúa trong trái tim tôi và bàn hỏi với Ngài.
16. LÃNH ĐẠO LÀ PHỤC VỤ CAO CẢ NHẤT
(1) Lãnh Đạo Là Phục Vụ Công Lý Tạo Tác Hòa Bình
Năm 1965, giữa lúc Johnson cho chiến tranh leo thang tại Việt Nam, thì Đức Phaolô VI được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, qua vị Chủ Tịch Amintore Fanfani và vị Tổng Thư Ký U Thant, mời sang Nữu Ước (4.10.1965). Trước sự hiện diện của Tổng Thống Johnson, Đức Phaolô VI không ngần ngại nói thẳng đến vấn đề hòa bình, nhắc lại lời của một vị Tổng Thống mà ông Johnson đang kế nghiệp:
“Từ nay đừng còn cảnh người này chống lại người kia, vâng, đừng bao giờ nữa! Chẳng phải vì chính mục đích này mà Liên Hiệp Quốc được thành lập sao? Xin hãy lắng nghe lời nói sáng suốt của một vĩ nhân quá cố, ông John Kennedy, đã nói cách đây bốn năm: ‘Nhân loại phải chấm dứt chiến tranh, bằng không, chiến tranh sẽ chấm dứt nhân loại…’
Xin quí vị nhớ cho rằng máu của hằng triệu con người, những nỗi thương đau chưa từng thấy, những cuộc tàn sát dã man và những tàn phá kinh khủng đang phê chuẩn cái hiệp ước đã liên kết quí vị lại trong một lời thề khiến lịch sử thế giới mai hậu phải đổi thay: ‘Đừng chiến tranh, đừng bao giờ còn chiến tranh nữa. Mà chính là hòa bình. Hòa bình phải hướng dẫn các dân tộc và toàn thể nhân loại.’”
Ngài luôn có những hoạt động nhằm chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Với các Giám mục Việt Nam đến Rôma, ngài thường nói: “Tôi đã làm tất cả những gì có thể được để vãn hồi hòa bình ở Việt Nam. Việt Nam có một chỗ đặc biệt trong trái tim và lời cầu nguyện của tôi. Mỗi tối trước khi ngủ, tôi mở cửa sổ hướng về Việt Nam, cầu nguyện và chúc phúc lành cho Việt Nam.”
Các đoàn hành hương biết chỗ “ngứa”của ngài, nên trong các buổi triều yết chung, mỗi khi ngài nhắc đến “Việt Nam” thì họ vỗ tay vang dội cả đền Thánh Phêrô. Họ biết làm thế ngài rất vui thỏa. Không danh xưng một quốc gia, dân tộc nào được Đức Phaolô nhắc đến bằng hai chữ Việt Nam. Ngài đã có 92 diễn từ về Việt Nam.
Mặc cho thế lực nào phản đối, mặc cho chế độ nào phiền trách, Đức Phaolô VI vẫn ý thức sáng suốt sứ mệnh rao truyền chân lý, hòa bình, công chính của ngài và đã can đảm thực hiện sứ mệnh ấy. Lịch sử tôn vinh ngài, bao nhiêu quả tim trên thế giới yêu mến ngài. Ngài đã kiên cường lãnh đạo Hội Thánh đi theo con đường Công lý Hòa bình vậy.
(2) Thập Đại Bại Và Thập Đại Thắng
Một thanh niên nọ có dịp học hỏi nghiên cứu lịch sử Việt Nam. Trong các anh hùng người Việt, vị mà ông khoái nhất là ông Nguyễn Trãi, vì tinh thần ông rất dũng cảm, khí thế ông rất kiêu hùng. Anh ta thuộc lòng cả bài “Bình Ngô Đại Cáo” của ông.
Khi đọc xong bức thư của ông gởi cho Tướng lãnh Trung quốc, khuyên bảo họ nên rút quân xâm lược về, nếu không sẽ thảm bại nhục nhã, anh ta khoái nhất là chỗ vị quân sư của vua Lê Lợi đã phân tích sự việc dưới tiêu đề: “Lục Đại Bại Và Lục Đại Thắng”, nghĩa là sáu nguyên do bất lợi khiến cho Trung quốc xâm lược phải thua và sáu nguyên do về thiên thời, địa lợi, nhân hòa, chính nghĩa, ái quốc khiến quân ta sẽ thắng.
Chàng thanh niên ấy đêm ngày cứ trầm ngâm suy nghĩ về “Lục đại bại và lục đại thằng”, mãi cho đến một hôm anh nảy ra một sáng kiến về thuật lãnh đạo, mà rồi, vì thấy hay hay, anh bèn bắt chước Nguyễn Trãi đặt tên cho là: “Thập Đại Bại Và Thập Đại Thắng.” Anh lấy làm thích chí và vui vẻ đem ra giải thích cho các bạn mười lý do khiến người lãnh đạo thất bại và ngược lại mười lý do khiến người lãnh đạo thành công. Các bạn anh nghe qua cũng tạm được bèn tặng cho anh một biệt hiệu khiêm tốn nhưng cũng rất oai “Nguyễn Trãi Tí Hon.” Tuy là sáng kiến của một “cậu bé tí hon”, nhưng cũng đáng cho chúng ta suy nghĩ:
Thập Đại Bại (của lãnh đạo):
1. Kiêu căng, xem người như máy móc, độc đoán, chẳng chịu nghe ai, bảo thủ ý kiến.
2. Băn khoăn, bi quan, khiến cho người khác cũng hoang mang.
3. Không biết dùng người, không chọn người, không biết huấn luyện, không hòa mình, không khoan dung, sống cách biệt, giữ óc địa phương.
4. Đa nghi đối với mọi người, mang bệnh “do dự mãn tính”, sợ mất lòng, thay đổi ý kiến như chong chóng.
5. Tự mình ôm đồm bao quát tất cả, lạc lõng trong những chuyện vụn vặt, phiền toái không phân biệt đâu là chính yếu đâu là phụ thuộc.
6. Miệng nói rất khéo, nhưng làm thì khác, cuối cùng chẳng ai tin. Tuyên bố rùm beng, nhưng sống và hành động không ra gì. Gặp khó khăn thì buông xuôi nản lòng, thành công thì huênh hoang tự đắc và cướp công, vô ơn đối với kẻ thành tâm giúp mình.
7. Dấn thân nửa vời, thịnh thì xu thời, “xông pha cứu trợ người thắng trận” trước ai hết; suy thì rút lui nhẹ nhàng không chịu trách nhiệm và đổ lỗi cho kẻ khác.
8. Không có chương trình và kế hoạch, hăng tiết theo cảm hứng, thích tấn công, khó chịu khi nghe sự thật mất lòng.
9. Ích kỷ, chỉ tìm danh lợi cho bản thân mình, giấu kỹ những kinh nghiệm của mình.
10. Không cầu nguyện, chỉ tin vào tài năng và mưu mô, thủ đoạn trần tục, trông cậy vào quyền thế.
Thập Đại Thắng:
1. Khiêm tốn, trọng nhân phẩm của mỗi cá nhân, uyển chuyển, linh động, lắng nghe sáng kiến mọi người, rồi suy nghĩ lượng giá.
2. Ý thức, tin tưởng sứ mạng của mình như một ơn Chúa, bình tĩnh trước mọi biến cố.
3. Có thuật dùng người, chấp nhận đối thoại tìm hiểu từng người; tâm hồn quảng đại, biết quên bỏ những lầm lỗi của kẻ khác, lắng nghe bạn bè khuyên bảo, mà nhất là biết nghe kẻ thù chỉ trích.
4. Tín nhiệm cộng sự viên: xem, xét, làm. Quyết định sáng suốt, thực hiện cho kỳ được.
5. Chia sẻ trách nhiệm với các cố vấn, chuyên viên, cộng sự viên, luôn học hỏi, trau giồi thêm khả năng.
6. Nói ít, làm nhiều, luôn luôn trọng kỷ luật; đi tiền phong, nêu gương sống trong mọi lãnh vực, nhìn thẳng thực tế, khách quan, khiêm tốn lúc thành công, chia sẻ niềm vui với cộng sự viên, kiên trì và nhẫn nại, không bao giờ thất vọng.
7. Sẵn sàng hy sinh tất cả vì sứ mệnh, can đảm nhận trách nhiệm, cùng thành công cùng thất bại, không bao giờ làm tổn thương tình huynh đệ. Tình nguyện nhận điều khó cho mình, để cái dễ cho cộng sự viên.
8. Trước mỗi việc đều có chương trình, kế hoạch, sau mỗi việc đều kiểm điểm chân thành, phê bình và tự phê, sợ tâng bốc, thích nghe nói thẳng nói thật.
9. Chỉ tìm phục vụ, quên mình đi vì đại cuộc, xác tín rằng mình chỉ là khí cụ trong tay Chúa, nên chỉ tìm thánh ý Chúa, giữ vững lập trường, thấy ai hơn mình thì vui mừng, chuẩn bị cho tương lai, dọn đường và trao hết kinh nghiệm cho người kế vị mình.
10. Trước mọi công việc, trong mọi khó khăn, biết cầu nguyện, tìm ánh sáng và sức mạnh nơi Chúa, bàn hỏi với Chúa trước hết, phó thác cho Chúa trọn vẹn. Hy vọng trong thất vọng, cứ vui vẻ tiến lên, ngày mai có Chúa lo.
Chắc các bạn cũng cảm nghiệm cái lý thú của “Thập Đại Bại và Thập Đại Thắng” rồi chứ gì? Hoan hô “Nguyễn Trãi Tí Hon”!
17. MẸ MARIA, TRUNG GIAN MUÔN HỒNG ÂN
(1) Tận Hiến Cho Mẹ
Theo Thánh Montfort, lòng thành thực sùng kính Mẹ phải đi đến tột đỉnh là tận hiến cho Mẹ. Ngài viết:
“Tôi đã nói: Điểm chính của đời tận hiến là làm mọi việc với Mẹ, trong Mẹ, nhờ Mẹ và vì Mẹ. Vào hội tận hiến, mỗi ngày đọc đôi kinh, việc đó không có chi là khó cả; đi sâu vào tinh thần tận hiến mới là khó. Ta phải thực tâm tùy thuộc, làm nô lệ của Mẹ và nhờ Mẹ làm nô lệ Chúa Giêsu. Tôi đã gặp nhiều người nhiệt thành tận hiến nhưng chỉ bề ngoài: Người có tinh thần tận hiến thật ít có, người bền đỗ sống đời tận hiến lại càng hiếm hơn”.
Ngài giải thích:
1. Với Mẹ: Nghĩa là khi làm bất cứ việc gì, người tận hiến phải lấy Đức Maria làm mẫu gương trọn hảo nhất để theo.
2. Trong Mẹ: Khi làm việc gì, ta tạo trong trí khôn hình ảnh Mẹ Maria như nhà nguyện nhỏ ta vào trong đó cầu xin, Chúa Cha sẽ không bao giờ từ chối… Ta hoạt động là hoạt động trong Mẹ, không bao giờ theo ý mình trong bất cứ việc gì.
3. Nhờ Mẹ: Bao giờ đến với Chúa Giêsu cũng phải đều nhờ Mẹ, nhờ Mẹ can thiệp với Chúa. Không xin gặp riêng Chúa để thưa một việc gì.
4. Vì Mẹ: Đã làm nô lệ của Mẹ, thì việc gì cũng làm vì Mẹ, trước là làm vinh danh Mẹ, sau là nhờ Mẹ mà làm cho danh Chúa cả sáng. Trong mọi hoạt động của con, hãy loại trừ con người của con, bởi vì tính tự cao, tự đại, tự mãn, vị kỷ… nó xâm nhập lúc nào cũng không thấy được.
Tâm hồn tận hiến, theo thánh Montfort, phải phục vụ Chúa như người nô lệ của tình thương. Ngài giải thích đơn sơ rõ ràng:
“Tôi xin nói ra là chúng ta phải lệ thuộc và phục vụ Chúa Giêsu không như người làm thuê có tiền, nhưng như nô lệ của tình thương, mà vì hết lòng quí mến Chúa nên hiến mình làm nô lệ để phục vụ Chúa, coi việc được nô lệ Chúa là một vinh dự rất cao cả…”
“Xưng mình là nô lệ Maria, có nghĩa là nhờ Mẹ mà làm nô lệ của Chúa một cách hoàn hảo hơn. Maria là phương tiện Chúa dùng để đến với ta, ta cũngphải nhờ Maria mà đến với Chúa (Thánh Augustinô)”.
18. HY VỌNG, ĐỈNH ĐIỂM CUỘC SỐNG
Ơn Chúa Và Ý Chí Con
Cậu Phaolô Bột, tiểu chủng sinh làng Sơn Miêng, phủ Ứng Hòe, tình Hà Đông, bị bắt cầm tù vì theo đạo Giatô. Cậu bị tra tấn dữ dằn, và vì còn trẻ, non gan yếu dạ nên cậu đã bước qua thập tự giá theo lệnh quan. Người ta thả cậu về. Mẹ cậu đuổi cậu ra khỏi nhà vì không muốn một đứa con chối Chúa. Phaolô bèn đi tìm một linh mục để xưng tội rồi lại trở về xin lỗi mẹ. Mẹ cậu tha lỗi và khuyên cậu: “Hãy vững vàng tuyên xưng lại đức tin, có Chúa giúp con.”
Nhờ ơn Chúa soi sáng, cậu Bột lấy lại ý chí, và với một tâm hồn can trường quả cảm, cậu chạy thẳng đến dinh Thương Nam Định và lớn tiếng: “Tôi đã dại dột bước qua thập giá, giờ đây tôi đến xưng đạo, tôi sẵn sàng chết vì Chúa”.
Lính đuổi cậu ra và quát bảo: “Đồ ngu dại, đi đi, về nhà ngay kẻo chết! Bén mảng đên đây làm gì!”
Nhưng cậu Bột vẫn can đảm đứng lì tại đấy, miệng không ngớt tuyên xưng đức tin.
Sau khi lãnh bản án của quan phê chuẩn, cậu bị voi chà nát bét cả thân mình. Linh hồn cậu bay thẳng về nơi vinh hiển (1858).
19. CON CÓ MỘT TỔ QUỐC ĐỂ YÊU MẾN VÀ PHỤC VỤ
(1) Hai Nhà Ái Quốc Công Giáo Việt Nam
Tiếng chuông ngân trầm, Việt Nam nguyện cầu.
Tiếng chuông não nùng, Việt Nam buồn thảm.
Tiếng chuông vang lừng, Việt Nam khải hoàn
Tiếng chuông thanh thoát, Việt Nam hy vọng.
Là người Công giáo Việt Nam chúng ta luôn luôn hãnh diện đã góp phần xây dựng đất nước từ khi đạo Công giáo đến Việt Nam. Chúng ta đặc biệt hãnh diện vì có lắm khuôn mặt yêu nước chân chính đã được ghi công trong lịch sử: Hai khuôn mặt nổi bật nhất, trong số đó là ông Nguyễn Trường Tộ và Linh Mục Đặng Đức Tuấn.
Nguyễn Trường Tộ (1827-1871)
Ông người thôn Bùi Châu, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An, theo học chữ Nho từ thuở nhỏ, tuy có tài về thơ văn, nhưng vì chán lối học từ chương và có khuynh hướng về lối học thực dụng, nên ông không theo đường cử nghiệp. Nhờ có đạo, nên một nhà dòng ở Tân Ấp mời ông làm thầy dạy chữ Hán, do đó ông gặp được một giáo sĩ thừa sai là Đức Giám mục Gaulthier (Ngô Gia Hậu). Vị Giám mục này dạy ông học tiếng Pháp và các khoa học phổ thông, rồi sau đó đưa ông qua Ý, qua Pháp một thời gian để ông quan sát học tập thêm nữa.
Khi về nước, giữa lúc người Pháp đang đánh Gia Định (1859), ông có giúp việc cho Soái Phủ Nam Kỳ trong ít lâu, chủ tâm vào việc giảng hòa hai chính phủ Pháp và Việt. Rồi ông về quê, đem các điều đã sở đắc giúp người đồng hương khẩn đất, lập ấp và kiến trúc, đồng thời viết nhiều bản điều trần để xin Triều đình canh cải mọi việc.
Năm 1866 (Năm Tự Đức thứ 19), ông được cử đi tìm mỏ ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Tháng Sáu năm ấy ông được Quan Tổng Đốc Hoàng Tố Viêm giao cho việc cắm lối để đào sông thiết cảng, một công trình thủy lợi quan trọng thời bấy giờ. Đến tháng 9, ông lại cùng với Đức Giám mục Gaulthier sang Pháp để mướn chuyên viên kỹ thuật và mua máy móc. Nhưng vì việc giao dịch giữa Triều đình Việt Nam với Soái Phủ Nam Kỳ trở nên gay go, nên khi ông đang lo các việc ở Pháp thì nhận được lệnh đình chỉ việc mướn chuyên viên và mua máy móc mà về.
Đến năm 1868, vua Tự Đức lại phái ông sang công tác bên Pháp, nhưng ông đau không đi được. Năm 1871, vua lại triệu tập ông vào Kinh (Huế) để đem học sinh sang du học Pháp, nhưng ông cũng đau nên phải từ chối. Giữa năm ấy thì ông mất, thọ 44 tuổi. Trước khi mất, ông còn viết nhiều bản điều trần nữa.
Nội dung của các bản điều trần đó (viết từ năm 1863-1971) là trình bày những điều ông đã xem thấy, hiểu biết, về thế giới văn minh khoa học, kỹ thuật cho Triều đình hay và thảo ra một chương trình cải cách để giúp cho việc phát triển Quốc gia và đối phó với hoàn cảnh đương thời. Những bản quan trọng nhất là về chính sách Tôn giáo (1863), về việc phái học sinh du học ngoại quốc (1866), về việc giao thiệp với nước ngoài (1868), về cải cách nông nghiệp, về việc tu chính võ bị (1871), đào tạo nhân tài (1871), về việc phát triển kỹ nghệ, về việc Quốc văn (1867)…
Lời lẽ các bản điều trần cho thấy ông là một người học thức rộng, kiến văn nhiều, lại có lòng nhiệt thành yêu nước, muốn đem những điều sở đắc mà giúp vào việc canh tân đất nước cho giàu mạnh phú cường. Lúc đầu, nhà vua thấy kế hoạch của ông có nhiều điều hay, cũng có ý muốn đem ra thực hành, nên có lần giao cho việc đi tìm mỏ và phái ông sang Pháp mua máy móc và tuyển chuyên viên (1866). Nhưng tiếc thay Triều thần bấy giờ phần nhiều không hiểu thời cuộc, chỉ một mực thủ cựu, không tán thành các việc ông xin, lại tìm cách bài bác công kích, nên chương trình hay ho của ông đành phải bỏ dở.
Cha Đặng Đức Tuấn
Cha Đặng Đức Tuấn cũng là người đồng thời với ông Nguyễn Trường Tộ. Thời ấy, vua Tự Đức và Triều đình Huế, như hai triều vua trước, đều xem đạo Công giáo là một dị đoan, là tà thuyết mê hoặc nhân tâm, xúi dân phản quốc và chạy theo giặc Pháp, nên đã ra sắc chỉ cấm đạo (từ năm 1848).
Để sửa đổi những quan niệm sai lầm ấy, cha Đặng Đức Tuấn, một linh mục địa phận Qui Nhơn, đã làm một bản điều trần bày tỏ mọi căn nguyên rồi định ra Huế, để trình cho vua ngự lãm (khoảng 1860-1861). Đang khi đi đường, thì ngài bị bắt và bị giải lên huyện Mộ Đức, tỉnh Bình Định. Quan huyện cho điệu ngài lên tỉnh. Ở đây nhân vua có hai vị quan ở Kinh vào kinh lý, nên bản điều trần của cha Đặng Đức Tuấn được xem qua và rồi bị giải ra Huế để trực tiếp cung khai với Triều đình đúng như lòng ngài sở nguyện.
Đến Huế, ngài được gặp đại thần Phan Thanh Giản và Thượng thư Lâm Duy Tiếp. Hai ông hỏi đạo Công giáo dạy những gì và vì sao “Tây Dương” đến gây hấn quấy rối. Cha Tuấn liền phân giải hai vấn đề quan trọng đã gây bao tai hại lớn lao trong thời kỳ ấy bằng những lời lẽ như sau:
“Đạo Công giáo dạy phụng sự Thiên Chúa linh thiêng, tạo thành thiên địa, cầm quyền sinh tử; phàm người thế có tinh linh vâng theo đường chính tất hưởng trường sinh cõi thọ.
“Đạo cũng dạy phục quyền vua thay mặt Thiên Chúa trị dân; đạo dạy hiếu kính phụ mẫu, đền ơn sinh thành.
“Các lý thật lẽ ngay bên đạo do ở pho sách Kinh Thánh rút ra, thành thử xưa nay vẫn một mực, và tuy truyền giáo tứ phương nhưng tựu trung đâu đó vẫn dưới quyền Đức Giáo Hoàng ngay tại Rôma.
“Nếu việc (gây hấn) do ở Rôma, thì xin chịu Đạo phá vậy; nhưng không phải, chiến tranh mà có là do bởi ở nước ngoài vì đường danh lợi mà tạo nên. Nếu truyền giáo mà hoành hành như thế, thì xin Triều đình xét năm tàu kia lại, như đạo nội ứng cho giặc tất nhiên sẽ rủ nhau bỏ xứ chạy ùa theo giặc. Nhưng bởi không có cái nhị tâm đó nên đâu đó vẫn ở yên giữ luật Nước Nhà…”
Sau đó, cha Đặng Đức Tuấn còn làm thêm vài bản điều trần nữa và được chính vua Tự Đức đọc. Xem xong, nhà vua truyền mở gông giải xiềng và ban thưởng cho ngài, rồi cha được tự do thăm viếng các giáo hữu đang bị giam cầm vì đức tin trong ngục thất.
Đến tháng 3 năm 1862, cha Tuấn lại dâng thêm hai bản điều trần nữa. Lần này vua Tự Đức thuận theo những lời yêu cầu của ngài nên hạ lệnh cho tha các giáo hữu đang bị bách hại và bị tống ngục.
Lúc đó miền Nam đã bị Pháp chiếm, miền Bắc lâm cảnh nổi loạn và tàu Pháp đánh ra Huế, đợi ký kết hòa ước với Việt Nam. Triều đình bàn tán xôn xao, không biết phái ai đi Đại sứ. Thượng thư Bộ Binh Lâm Duy Tiếp bèn mời cha Tuấn đến dò ý kiến. Ngài đề nghị cụ Phan Thanh Giản cùng ông ta đi, và ngài cũng xin tháp tùng làm cố vấn. Vua Tự Đức y theo lời xin. Từ ngày ấy cha Tuấn được ra vào Tả Viện và Hoàng Thành để bàn bạc chuyện thương thuyết với hai ông Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp. Đến tháng 5 thì cả ba cùng phái bộ vào Sàigòn ký hòa ước Nhâm Tuất.
Sau cha Đặng Đức Tuấn được về Bình Định và mỗi lần phải tra hỏi, Vua Tự Đức lại ra chỉ triệu ngài về Huế. Nhờ ngài mà Triều đình bớt ác cảm với Đạo và biết rõ quan niệm yêu nước chân chính của người Công giáo. Phần ngài thì cũng được dịp góp phần vào việc chính sự quốc gia.
“Nếu là Hoa, tôi sẽ là đóa hướng dương,
Nếu là Chim, tôi sẽ là bồ câu trắng,
Nếu là Dân, tôi sẽ chọn làm người Việt Nam,
Nếu là Tin, tôi sẽ nguyện theo Chúa hết lòng.”
Dayton, OH, ngày 16/9/2005.
Gs. Đỗ Hữu Nghiêm