23- Khôn Ngoan
1. Sự khôn ngoan của Thập giá
* Các nhà bác học, các thiên tài đã đóng góp rất nhiều cho văn minh thế giới. Nhưng họ chỉ có những mảnh vụn chân lý. Một thế giới có trật tự tốt đẹp, cần phải có một sự khôn ngoan siêu việt: Ngôi Lời, "nhờ Người mà muôn vật được tạo thành" (ÐHV 549).
* Con tin tưởng và theo gương thánh Phaolô: "Khi đến với anh em, tôi đã không đến với uy thế của ngôn ngữ, hay khoa khôn ngoan để rao giảng chứng chỉ của Thiên Chúa. Tôi đã quyết định là giữa anh em tôi không muốn biết gì, ngoài Ðức Kitô Giêsu và là Ðức Kitô Giêsu bị đóng đinh thập giá." (1Cor. 2:1-2) (ÐHV 554).
Thường thường người ta ai cũng cầu xin cùng Chúa cho được ơn khôn ngoan sáng suốt để cư xử với mọi người. Nhiều người khác lại cầu xin cho được những ơn lành phần hồn phần xác; nhưng ít kẻ cầu xin cho được vác Thánh giá Chúa, chịu đau khổ vì Chúa...
Thánh nữ Margarita thuật lại rằng: "Một hôm Chúa hiện ra và phán bảo tôi. Hai điều sau đây con muốn chọn điều nào: một là được khỏe mạnh, lòng trí luôn vui hưởng sự ngọt ngào êm ái, được bề trên tín nhiệm, chị em quý mến, người ngoài cảm phục, hai là phải ốm đau bệnh tật, chịu bề trên thử thách, chị em khinh dể, luôn luôn cay đắng tư bề khổ cực.
"Nghe vậy tự nhiên lòng tôi xao xuyến âu lo. Tôi sấp mặt xuống đất và than thở cùng Chúa: Lạy Chúa, con chẳng dám chọn điều nào cả, nhưng điều nào đẹp lòng Chúa hơn thì xin Chúa chọn thay cho con.
"Chúa lại phán bảo cùng tôi: Ta chọn cho con, con đường Thánh giá, vì chỉ Thánh giá mới làm đẹp lòng Ta hơn cả, và chỉ ai yêu mến Thánh giá mới thực giống Ta hoàn toàn... Cũng chính lúc ấy, Chúa cho tôi xem thấy những sự khốn khó của cả đời tôi. Tôi rùng mình kinh khiếp, âu lo cho số phận mai ngày, không biết đời mình đau khổ sẽ dẫn về đâu. Bấy giờ tôi suy nghĩ: "Yêu ai thì trao tặng phần quý nhất cho người mình yêu. Chúa Giêsu sẽ ban cho những kẻ Ngài yêu, ngoài Nước Thiên Ðàng, chẳng còn gì quý hơn cho bằng Thánh giá".
Khi Margarita trình bày những lời truyền dạy của Thánh Tâm Chúa cho bà bề trên, bà liền bảo phải viết vào giấy và tường trình cho các Ðấng Bản quyền địa phận. Các Ðấng xem xong ai cũng lắc đầu, cho Margarita là người nếu không bị quỷ ám thì cũng là kẻ cuồng tín. Nhục nhã hơn nữa, một vị linh mục nọ còn đến làm phép trừ quỉ cho chị.
Thế là tiếng đồn chị Margarita bị quỉ ám vang khắp nơi. Ðâu đâu người ta cũng khiếp sợ và xa tránh chị như tránh tà ma. Mãi về sau, cha De la Colombière, một linh mục Dòng Tên, bề trên ở tỉnh Parey-le-Mondial mới xác nhận việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu là do chính Người truyền dạy. Thế nhưng, một thời gian sau nữa, quyết nghị lại bị một hồng y phi bác, Margarita lại thêm một phen bị mọi người khinh ghét, coi là kẻ đạo đức giả hình, nửa người nửa ngợm, tà ma ám ảnh.
Ta hãy nghe lời chị thánh tâm sự: "Bấy giờ mọi người đồng tình làm khổ tôi, bêu xấu tôi, bạc đãi tôi. Nếu không có Chúa nâng đỡ, tôi không sức nào chịu được". Mà đau khổ sỉ nhục đâu phải chỉ xảy ra trong vài ngày. Chị phải chịu đựng như thế trong suốt 20 năm trường. Nhưng nhờ những năm dài này, đầy nước mắt đau thương ấy việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu đã được phổ biến khắp nơi.
Mới đây, vào năm 1974, các Giám mục, Hồng y khắp thế giới đã tề tựu về nước Pháp để tham dự đại hội quốc tế về việc tôn sùng Thánh Tâm Chúa Giêsu, tổ chức ở Parey-le-Mondial là nơi Chúa đã hiện ra cùng Maria Margarita năm 1675. Vì thế kỳ Ðại hội này cũng là dịp kỷ niệm 300 năm ngày Chúa tỏ Thánh Tâm Người cho nhân loại.
Những đau khổ, khờ dại của chị Margarita ngày xưa tại Dòng Thăm Viếng nay đã biến thành vinh hiển, khôn ngoan trên Nước Thiên đàng.
2. Thiên Chúa xử dụng kẻ tầm thường
* Ngôi Lời đã nhập thể, và Ðức Chúa Cha đã phán: Ðây là Con Ta yêu dấu và đẹp lòng Ta, hãy nghe lời Người." Người là sự sống: con chỉ sống bằng tinh thần của Người. Người là đường: con chỉ theo bước chân Người. Người là Thật, con chỉ tin lời dạy của Người (ÐHV 550).
* Muốn được khôn ngoan con hãy tha thiết cầu xin và con phó thác cả cuộc đời con sống tuyệt đối theo ý Chúa. Ðến giờ phút cần thiết, dù phải điệu đến trước tòa quan, giờ ấy không phải con nói, nhưng chính Chúa Thánh Thần sẽ nói bởi miệng các con, như "Têphanô đã giảng, đầy lòng tin vào Chúa Thánh Thần" (ÐHV 556).
Có ai ngờ cô bé chăn chiên ở Domrémy miền Lorraine nước Pháp lại trở thành vị đại anh hùng dân tộc, đã can đảm đứng lên đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi... Nhưng sự thật là thế!
Sau khi đã giải phóng được phần lớn nước Pháp khỏi ách đô hộ của Anh quốc và đưa vua Charles VII về nhà thờ chính toà thành Reims để xức dầu phong vương, Jeanne d'Arc (1412-1431) lại xuất chinh một lần nữa; nhưng rủi thay, phen này cô phải thất trận và sa vào tay quân giặc (1430).
Họ lập một tòa án để xử Jeanne d'Arc và quyết buộc tội cô là kẻ rối đạo để hòng thiêu sống cô. Họ đặt ra một câu hỏi: Cô có ơn nghĩa cùng Chúa không?
Ðây là một câu hỏi vô cùng hóc búa. Nếu trả lời "có" thì sẽ buộc tội là rối đạo, vì nào có ai dám cả gan xưng mình là có ơn nghĩa Chúa? Mà nếu trả lời "không" thì cũng sẽ buộc tội rối đạo ngay, vì không có ơn nghĩa cùng Chúa thì ở trong tay ma quỉ chứ còn gì nữa! Jeanne d'Arc cầu nguyện hồi lâu và trả lời bằng câu rất khôn ngoan khiến các quan tòa đều kinh ngạc: "Nếu tôi có ơn nghĩa Chúa thì xin Chúa gìn giữ ơn nghĩa đó trong tôi. Nếu tôi chưa có ơn nghĩa Chúa thì xin Chúa ban ơn nghĩa Chúa cho tôi".
3. Tên điên thành Assisiô
* Người ta khen con hay chê con, con đừng lo sợ vì mất mát hay sung sướng vì tăng thêm điều gì: Chỉ một điều làm con thiệt hại: tội lỗi. Chỉ một điều tăng thêm giá trị: nhân đức. Khen chê đừng lo, cũng như không sợ súng giả, không ham bạc giả (ÐHV 544).
* Con đừng hoài nghi lúc thấy đường hy vọng vắng bóng những người mà thế gian cho là khôn ngoan. Chúa Giêsu đã báo trước: "Lạy Cha, con đội ơn Cha vì Cha đã ẩn dấu những điều này cho những người thông minh, khôn ngoan và Cha đã bày tỏ cho kẻ thấp hèn." Con chỉ cảm tạ Chúa, vì đã ban cho con biết sự khôn ngoan thật. (ÐHV 551).
* Thế gian sợ sự khôn ngoan ấy, vì Chúa Giêsu gọi là "đường hẹp", vì nó đảo lộn cuộc sống cũ, vì nó khuấy rầy thế gian, vì nó đặt lại nấc thang giá trị, vì thiên hạ cho là "chướng tai". Nhưng những tâm hồn thiện chí khiêm cung, những giới trẻ đầy nhiệt huyết, qua mọi thời đại đã theo sự khôn ngoan ấy đến cùng (ÐHV 552).
Phanxicô là con trai của cụ Bênađô, một thương gia tơ lụa nổi tiếng thành Assisiô nước Ý. Sau những tháng ngày làm việc ở trong gia đình, chàng được Chúa soi sáng và cảm nghiệm sâu xa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giàu có trong Phúc Âm: "Anh chỉ còn thiếu một điều thôi. Hãy bán tất cả của cái mà phân phát cho kẻ nghèo và anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Tôi" (Lc 18,22). Chàng cương quyết cùng một số anh em tình nguyện sống nghèo khó theo Phúc Âm và tự gọi tên nhóm là "Anh em hèn mọn".
Thân phụ chàng, ông Bênađô, rất đỗi buồn phiền, thuyết phục con hoài mà không sao ngăn cản được. Một hôm, hai cha con đang giằng co vật lộn nhau trên đường thành Assisiô thì Ðức Giám mục đi ngang qua; thấy công chuyện lôi thôi, ngài mời cả hai về Tòa Giám mục. Trước mặt vị Ðại diện Chúa và mọi người hiếu kỳ đang đứng xem đông đảo. Ông Bênađô đã tuyên bố: "Thằng Phanxicô là một cái ô nhục cho giòng họ tôi. Tôi từ nó, không nhận nó làm thừa kế nữa". Ðức cha quay sang Phanxicô dịu dàng hỏi: "Con có muốn nói gì không, Phanxicô?" Thưa Ðức Cha, không. Rồi... thoắt một cái, chàng cởi bộ đồ áo nhung đang mặc, cuộn tròn lại và đặt dưới chân ông Bênađô, hoàn toàn không trước mặt Chúa và loài người. Chàng nói lớn với mấy tay quyền quý và dân chúng đang đứng xem ở ngoài: "Cho đến bây giờ tôi vẫn gọi ngài là Phêrô Bênađô là cha tôi. Nhưng từ giờ trở đi, tôi chỉ còn một người cha là Thiên Chúa!... Tôi là kẻ điên mới".
Ðức Giám mục thấy Phanxicô đang trần truồng thì cởi áo khoác ngoài choàng lên người chàng. Từ đó, Phanxicô bắt đầu một đời sống mới: ăn mặc rách rưới rảo quanh các đường phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin Mừng tình thương, đói thì xin ăn, đêm về thì ngủ lang bạt. Ông Bênađô quá sức tức giận và hổ thẹn, bèn sai đầy tớ chực sẵn ở nhà, mỗi lần Phanxicô đi ngang qua thì ra đánh đập, mắng nhiếc, trút cơm thừa canh cặn lên đầu chàng.
Chiều hôm ấy, Phanxicô ngang qua trước cửa nhà ông Bênađô, theo sau là một đám người ô hợp: kẻ thành tâm thiện chí muốn đi theo tu tập lẫn người sỉ nhục, nhiếc mắng, ném trứng thối vào chàng thanh niên điên. Tôi tớ trong nhà vừa thấy bóng Phanxicô liền ùa ra đánh đập, tạt đồ dơ vào mặt Phanxicô và quát:
- Mày là đồ khốn nạn, đồ ăn mày! Phanxicô vẫn quỳ thinh lặng cúi đầu. Một tu sĩ đứng bên chàng đáp:
- Phanxicô, anh thật có phước, vì ai nghèo khó thì được Nước Trời làm của mình vậy.
Tên đầy tớ tiếp tục mắng chửi:
- Có nhà cao cửa rộng không ở, lại đi làm kiếp ăn mày! Ðúng là thằng điên!
Vị tu sĩ nhẹ nhàng rót vào tai Phanxicô:
- Anh Phanxicô, anh thật khôn ngoan, vì được lời lãi cả thế gian mà thiệt mất linh hồn nào được ích chi!
Tên đầy tớ giận sôi lên, vừa đánh vừa chửi:
- Mày là đồ vô phúc! Cha mẹ bà con đã từ mày, vì mày đã bỏ giai cấp quí tộc để đi làm một tên nghèo đói, mạt hạng!
Vị tu sĩ vẫn bình thản bảo:
- Anh Phanxicô, anh thật khôn ngoan và hạnh phúc, vì Thiên Chúa là Cha của anh. Bạc vàng, danh vọng rồi sẽ tiêu như mây khói. Còn kẻ bỏ mọi sự mà theo Chúa sẽ được Ngài thưởng gấp trăm!
...Tuần nào cũng đều xảy ra một vài vụ như trên. Dần dần, các đầy tớ cảm thấy chán chê và thôi không thèm la mắng, đánh đập chàng nữa. Những kẻ đi theo nghe Phanxicô giảng ngày càng đông đảo. Họ hết sức mến yêu cảm phục lòng nhẫn nại khiêm nhu của chàng. Nhìn vào con người chàng, họ hiểu biết sự khôn ngoan đích thực là bỏ hết mọi sự để chỉ gắn bó vào một mình Thiên Chúa.
Lúc sắp nhắm mắt lìa cõi trần, các môn đệ nài nỉ xin Phanxicô trăn trối đôi lời. Ngài chỉ lắc đầu: "Các con tôi, các anh em tôi, những gì tôi phải nói với anh em, tôi đã nói tất cả. Giòng máu nào có trong con tim, trong huyết quản, tôi đã trao cho anh em. Giờ đây tôi không còn chữ nghĩa nào để nói. Nếu còn gì phải nói, Thiên Chúa sẽ giữ tôi lại trên trần gian này".
- Thế cha không có gì, không có gì hết để nói với chúng con sao? Gilles, một môn đệ của Phanxicô thốt lên.
Phanxicô thì thầm: "Khó nghèo, hòa bình, yêu thương. Không có gì khác, các anh em ơi... Khó nghèo, hòa bình, yêu thương". Ngài cố ngồi lên, nhưng sức hơi đã mòn: "Cởi quần áo cho tôi... Ðặt tôi nằm trần truồng dưới đất để tôi được sờ vào đất đai và đất đai được chạm vào tôi"
Phanxicô lìa trần ngày 4.10.1226, trên môi hát bài thánh thi ca tụng Chúa: "Xin tán tụng Ngài, Chúa con ơi với tất cả tạo vật của Ngài..."
4. Ai khôn hơn ai?
* "Ðối với những kẻ hư mất, thì lời rao giảng về Thập Giá là một sự điên rồ; còn với ai được cứu độ, tức là chúng ta, thì lại là quyền năng của Thiên Chúa." (1Cor. 1:18) (ÐHV 543).
Thánh Gioan Boscô hết sức yêu thương bọn thanh niên cao bồi du đãng. Ngài nghĩ rằng chúng nó hư hỏng, tâm hồn vẩn đục cũng chỉ vì thiếu tình thương, thiếu giáo dục của gia đình, hoặc vì ảnh hưởng xấu xa của xã hội. Và cũng vì hăng say phục vụ đám trẻ, nên ngài đã sớm mắc bệnh lao, phải về tĩnh dưỡng ở quê. Khi xong xuôi, ngài thỉnh cầu mẹ già lên giúp đỡ. Trên con đường từ quê lên tỉnh, hai mẹ con nghèo xơ, nghèo xác, không có một hào dính túi, phải đi bộ đến rã cả chân. Tới một công viên, hai mẹ con ngồi nghỉ, thở dốc, dáng vẻ vô cùng mệt nhọc... Một linh mục già đi ngang qua thấy thế dừng lại hỏi thăm. Nghe Gioan kể lại sự tình, thấy khuôn mặt xanh xao, hốc hác, cầm lòng không được cha già liền rút chiếc đồng hồ quả lắc trong túi ra, đặt vào tay Gioan và nói: "Tôi chẳng có gì, sẵn đây có chiếc đồng hồ quả lắc, xin cha bán mà giúp đỡ!" Gioan Boscô rất đổi cảm kích trước cử chỉ thấm tình huynh đệ. Hai mẹ con nhìn nhau: Ðây là tất cả vốn liếng cho cái chương trình vĩ đại trong tương lai của hai người.
Tin tưởng ở ơn phù hộ của Ðức Bà, cha Gioan lại hăng say tiếp tục công việc: Thuê nhà quy tụ thêm lũ lâu la, ngày Chúa nhật đưa chúng đi chơi, lúc thì xin chơi ở sân đá bóng của giáo xứ này, lúc lại còn chơi ở công viên giáo xứ khác, đâu đâu cũng chỉ chơi được vài ba lần rồi thế nào cũng bị đuổi! Ai cũng lắc đầu ngán ngẫm cái bọn nghịch tặc ấy: "Con cái nhà ai mà rách rưới, xơ xác, ồn ào phá phách, không lễ độ một ít nào cả!" Vì thế cha con Gioan Boscô phải luôn luôn dời chỗ... Ngài thường bênh vực bọn quỷ tặc: "Ðó là những đứa trẻ bị bỏ rơi! Nếu chúng được dạy dỗ, yêu thương, tôi tin chắc chúng sẽ trở nên người tốt..."
Không những người ngoài bàn tán mà cả anh em linh mục trong giáo phận cũng to nhỏ với nhau:
- Gioan quá kiêu căng, nó là thánh thần gì mà dám cải hóa bọn côn đồ đó!
- Tôi nghĩ nó không kiêu căng đâu, nhưng có lẽ mát mát hấp hấp làm sao đấy!
- Nó say mê công việc quá! Kể ra nó cũng là người đạo đức và dấn thân thực, nhưng biết đâu vì quá hăng say công việc mà thần kinh nó bị căng thẳng!
Từ lý thuyết phải đi đến thực hành, họ kết luận: "Phải kiếm cách cho Gioan an dưỡng".
Một chiều nọ, hai vị kinh sĩ đi xe đến thăm Gioan, Gioan tiếp đón niềm nở. Trà thuốc xong, hai vị vào đề ngay:
- Cha Gioan này, cha làm việc căng thẳng mệt mỏi quá! Mời cha lên xe cùng với anh em chúng tôi đi dạo một vòng cho thoải mái!
- Xin cám ơn quí vị kinh sĩ. Hôm nay con bận quá, con xin hẹn dịp sau.
- Bận gì mà lắm thế. Ði một vòng cho mát rồi lại về thôi mà!
Các ngài năn nỉ hoài, Gioan đành lễ mễ xách mũ theo các ngài ra xe. Gioan mời hai vị đi xe nhà mình. Tới gần cửa xe, hai kinh sĩ mời Gioan vào trước. Gioan mau miệng từ chối: "Không, không, xin mời hai ngài lên trước, con không dám!" Nhường mãi không được, hai kinh sĩ đành bước lên xe. Rầm! Gioan đóng ập cửa lại, quát bảo tài xế: "Cho hai ngài đi mau lên!"
Tài xế nghe mật lệnh của cha Gioan Boscô đã cho phóng mạnh xe cho hai vị kinh sĩ đến nhà thương điên thành phố. Ở đây người ta vừa được điện báo, họ bố trí sẵn: cổng mở ra, nhân viên đợi sẵn trong sân. Xe vừa dừng, họ liền áp tới lôi hai ngài vào phòng mạch. Họ ngạc nhiên to nhỏ cùng nhau:
- Lẹ thực, theo điện báo với giấy tờ thì chỉ có một ông linh mục điên sắp được đưa tới mà sao bây giờ lại đến hai ông?
- Không phải chúng tôi! Ông khác cơ!
Hai vị kinh sĩ thi nhau đối chối phân trần. Nhưng họ càng la hét om sòm, thì nhân viên càng tưởng thực.
- Ông nào nữa! Ðã có lệnh bác sĩ, hễ xe đến là bắt vào phòng ngay. Nếu có vùng vằng hung hăng thì xích tay lại.
Giữa lúc ồn ào náo động, thiên hạ xúm nhau xem, thì bác sĩ đi ra. Các nhân viên trình bày: "Theo lệnh thì chỉ có một ông, mà bây giờ xe lại chở đến hai ông. Ông nào cũng không chịu vào phòng còn làm ùm lên. Xin bác sĩ giải quyết". Nhìn ra mặt hai vị kinh sĩ, bác sĩ liền nói: "Ông linh mục điên đâu rồi?"
- Thưa bác sĩ, ông ấy ranh quá! Ông bảo chúng tôi lên xe trước rồi đóng ập cửa lại. Thế là xe chạy đến đây. Thật không ai ngờ!
- Thôi, các ngài an tâm mà về nghỉ cho khỏe. Chắc ông Gioan đó không điên đâu! Các ngài đã rõ chưa: điên sao mà đa mưu túc trí như thế! Ông Gioan còn minh mẫn hơn các ngài tưởng nhiều!"
5. Một nhà ngoại giao khéo léo
* Thế giới không chỉ biến đổi nhờ hành động thôi, thế giới biến đổi nhờ tư tưởng, vì tư tưởng chỉ huy hành động (ÐHV 547).
* Sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần ban, sẽ soi sáng các dự định của con, sẽ hướng dẫn các chương trình của con, sẽ biến đổi các hành động của con thành giá trị vĩnh cửu, sẽ làm con người con bất tử, trường sinh (ÐHV 553).
Theo thông lệ của một số quốc gia Âu Mỹ, vị Sứ thần Tòa Thánh đương nhiên là niên trưởng của ngoại giao đoàn. Thông lệ này có nhiều điểm tiện lợi. Vì Tòa Thánh không ngã theo phe nào, nên những lúc đọc diễn văn vào các dịp lễ lớn, chẳng bao giờ xảy ra thắc mắc, gây hiềm khích giữa nước này với nước khác. Vì thế, Tướng De Gaulle khi bắt đầu thành lập chính phủ năm 1944, đã yêu cầu Tòa Thánh phái Sứ thần sang gấp cho kịp đầu năm Dương lịch. Ông ngại rằng nếu vị Sứ thần Tòa Thánh không sang kịp, thì đầu năm ấy, Ðại sứ Liên Sô, lúc ấy đang niên trưởng sẽ đọc diễn văn chúc mừng Tổng Thống. Và trong thực tế, Ðại sứ Liên Sô đã soạn sẵn một bài diễn văn, vì đã cận ngày rồi mà bóng dáng vị Sứ thần Tòa Thánh chẳng thấy đâu cả.
Ba ngày trước lễ, Ðức Cha Roncalli mới có mặt tại Paris. Trình quốc thư xong, ngài về nhà dọn bài diễn văn. Các đồng nghiệp đến cho ngài hay Ðại sứ Liên Sô đã dọn sẵn một bài diễn văn rồi! Thật là khó xử! Làm sao cho khỏi chạm tự ái nhất là giữa Mátcova và Vatican?
Ðức Cha Roncalli gọi điện thoại xin phép đến thăm Ðại sứ Liên Sô. Ðại sứ nhận lời và hẹn giờ...
Ðúng hẹn, Ðức Cha Roncalli vào phòng khách tòa Ðại sứ Liên Sô tại Paris. Sau một lúc chuyện trò thân mật, Ðức Cha Roncalli vui vẻ khai đề:
- Thưa Ðại sứ, theo thông lệ thì ngày mai khi chúc mừng năm mới Tổng Thống nước Pháp, tôi sẽ phải đọc một bài diễn văn; thế mà tôi nghe Ðại sứ cũng có dự bị một bài diễn văn rồi, phải không, thưa Ðại sứ?
- Ðúng vậy, sợ ngài đến không kịp, tôi phải soạn sẵn, kẻo nhỡ ra...
- Thưa Ðại sứ, tôi vừa tới Paris, chân ướt chân ráo, chưa quen người quen việc, mà thủ đô Paris lại là một nơi phức tạp nhất hoàn cầu. Vậy xin Ðại sứ cho phép tôi được xem diễn văn của ngài.
- Ðược lắm! Ðược lắm! Xin ngài đợi tôi một chút, tôi sẽ giao cho ngài đọc.
Ðại sứ Liên Sô lấy bài diễn văn trao cho Ðức Cha Roncalli rồi đăm đăm nhìn phản ứng của ngài trong lúc ngài chăm chú đọc.
- Ngài đọc xong rồi à? Ngài thấy thế nào? Xin cho tôi biết cảm tưởng.
- Hay lắm, tốt lắm! Và có một điều nữa tôi muốn nói, không biết ngài có cho phép không?
- Xin ngài cứ nói, đừng ngại!
- Nói lên điều này, tôi thấy rất táo bạo, nhưng với tất cả sự chân thành: nếu không có gì trở ngại, xin ngài cho tôi được mượn bài diễn văn của ngài để đọc vào ngày mai... Tôi khỏi dọn, mà nội dung cũng tốt đẹp đầy đủ cả rồi!
-Tôi sẵn lòng và lấy làm vinh dự nữa! Nhưng tôi xin phép được hỏi: Ngài là Sứ thần Tòa Thánh mà dám dùng diễn văn của Ðại sứ Liên Sô sao? Ðiều này khiến tôi ngạc nhiên quá!
- Ðược lắm chứ, vì chúng ta đều nói lên những tâm tình tốt đẹp cả. Xin ngài cho tôi được đọc hoàn toàn như văn bản của ngài, chỉ xin thêm một câu vắn tắt thôi.
- Câu nào xin ngài cho biết.
- Tôi muốn thêm câu: "Xin ơn trên phù hộ Tổng Thống" có được không?
- Tôi hoàn toàn nhất trí, vì đó là phần riêng của ngài, ai cũng hiểu vậy cả.
Thế là hôm sau, đại diện cho ngoại giao đoàn, Ðức Cha Roncalli đã đọc bài diễn văn chúc Tết Tổng Thống De Gaulle. Ðọc xong, hết mọi người hoan hô khen ngợi, đến bắt tay mừng ngài thành công. Ðức Cha Roncalli mỉm cười và nói: "Ðó là công nghiệp của Ðại sứ Liên Sô. Tôi mượn bài của ông. Còn phần tôi, tôi chỉ có câu cuối cùng!"
Ðại sứ Liên Sô rất hân hạnh và từ đó về sau, ông ta rất có thiện cảm với Sứ thần Tòa Thánh.
Còn Ðức Cha Roncalli thì được mọi người khen ngợi là khôn ngoan, tế nhị, khéo léo vô cùng, vì đã có tư tưởng đoàn kết, hòa hợp để xây dựng hòa bình trên toàn thế giới.
6. Ðức Gioan XXIII nói về đơn sơ và khôn ngoan
* Ai "sẽ hạ người quyền hành xuống khỏi vị cao"? Ai "sẽ đánh tan những người kiêu ngạo trong lòng"? Ai sẽ mang lại trật tự cho bao tư tưởng lộn xộn, lệch lạc? Ai sẽ đem bình an cho người thời đại ta, để vững tâm đi trên đường hy vọng? Chỉ có sự khôn ngoan Thiên Chúa ban qua tay Ðức Mẹ, "Tòa đấng khôn ngoan". (ÐHV 545).
* "Thế giới nghèo" quằn quại trong đói khát, tủi nhục, trong bao vấn đề xã hội, lúng túng giải quyết không được: khó bó khôn. "Thế giới tư bản" lặn lội trong khoái lạc, tạo thêm nhu cầu, đầu óc chất chứa tư tưởng lộn xộn, tuyên truyền thêm bất an, hoang mang, tự tôn mình làm thầy thiên hạ; ngạo mất khôn (ÐHV 546).
* Khi những người thông minh, Khi những nhà bác học, Nghĩ mình biết tất cả, Khám phá được tất cả, Biết quỳ gối nguyện cầu Thiên Chúa, Biết những phát minh của mình chỉ là tia sáng từ trời chiếu soi, lúc ấy họ nhìn vũ trụ với cặp mắt khác, họ thấy mọi sự được tổ chức theo một trật tự, một chương trình hoàn hảo từ đời đời (ÐHV 548).
"Ðối xử với mọi người, phải tôn trọng họ cách khôn ngoan và đơn sơ theo tinh thần Phúc Âm. Phải luôn noi gương Chúa Giêsu để ăn ở đơn sơ, hấp dẫn trong mức độ khôn ngoan của người hiền triết, của các thánh. Xin Chúa giúp. Tuy kẻ gian dù không dám khinh nhưng có coi thường sự đơn sơ chất phác thì mặc họ; đừng kể chi nếu họ có đôi cử chỉ hay đôi lời ý nhị để ma lị ta; vì thường gậy ông đập lưng ông, họ phải xấu hổ gánh chịu việc họ làm. Ai "đơn sơ ngay thẳng, kính sợ Chúa" sẽ luôn luôn "xứng đáng hơn mạnh mẽ hơn" với điều kiện là phải khôn ngoan, dè dặt và hòa nhã. Kẻ đơn sơ không sợ tuyên xưng Phúc Âm mọi nơi, mọi lúc, trước mặt mọi người, dù họ là hạng người cho Phúc Âm là hèn yếu, ấu trĩ. Ðừng để kẻ khác gạt gẫm làm cho chúng ta đoán xét sai lạc; dù ai có thái độ nào với ta, ta vẫn giữ tâm hồn thư thái bình tĩnh.
"Khôn ngoan, tức biệt giữ một phần sự thực khi chưa tiện nói ra, miễn là sự thinh lặng đó không làm nhẹ giá hay gây sự hiểu lầm cho một phần sự thật được tiết lộ. Khôn ngoan là người biết đi đến mục đích mình đã lựa chọn bằng những phương pháp kiến hiệu để quyết định đúng và thi hành đúng. Khôn ngoan là người biết tiên đoán và đo lường mọi khó khăn trở ngại có thể xảy ra, biết chọn con đường vừa phải để không gặp trở ngại khó khăn quá lớn. Khôn ngoan là người khi đã nhắm mục đích tốt đẹp, lớn lao, cao cả, sẽ không lạc hướng, nhưng biết vượt mọi trở ngại để làm cho được việc một cách hoàn hảo. Khôn ngoan là người trong mọi vấn đề biết đâu là cái chính, không lẩn quẫn trong cái phụ: biết dồn hết toàn lực một cách liên tục chặt chẽ để đi cho tới cùng đích một cách tốt đẹp. Khôn ngoan là người khi bắt đầu đã biết dâng và phó thác thành quả cho Chúa; dù có thất bại phần nào, hoặc thất bại hoàn toàn đi nữa, họ vẫn an tâm vì đã làm đúng, và biết quy hướng tất cả theo ý Chúa và cho vinh quang cao cả của Chúa.
"Ðơn sơ không đối chọi với khôn ngoan hay ngược lại. Ðơn sơ đóng vai trò tình yêu, khôn ngoan là tư tưởng. Tình yêu cầu nguyện, tri thức canh phòng. "Hãy tỉnh thức và cầu nguyện". Cả hai hòa hợp cách hoàn hảo. Tình yêu như chim cu rù rì, tri thức như con rắn không vấp ngã, không va đầu, vì khi bò tới, đầu của rắn cất cao quan sát mọi trở ngại trên đường tiến".
7. Ðể được khôn ngoan thật
* Con phải vui tươi luôn. Ðường hy vọng không thể chấp nhận lữ hành buồn phiền được, đường hy vọng đem lại vui tươi (ÐHV 535).
Ðức Ông Albert Battandier có thuật lại một câu chuyện xảy ra trong đời ngài: "Một hôm tôi bị một người bạn vả mặt một cách vô lý. Không đánh trả cũng chẳng hé môi, rồi bất nhác nhớ lại Lời Chúa Giêsu, tôi liền giơ thêm má kia cho ông ấy vả, và ông ta giáng thêm một cái thật mạnh nữa! Lúc đó trên bàn có sẵn con dao. Tôi đứng dậy và phải phấn đấu cầm mình lắm mới khỏi quơ lấy nó để trả thù. Tôi nhắm mắt đi thẳng một mạch ra nhà thờ. Tôi quỳ cầu nguyện và an bình đã trở lại trong tôi. Bây giờ tôi mới thấm thía sự khôn ngoan đích thực của Thập giá".
-----o0o-----
24- Học
1. Thành quả của lòng khiêm tốn học hỏi
* Muốn tiến kịp, tiến nhanh, tiến vững trên đường hy vọng, con phải học (ÐHV 557).
* Học để biết. Học để canh tân. Học để phục vụ. Học để yêu mến (ÐHV 560).
* Không thông thạo, con dễ tự phụ và tuyên bố táo bạo. Trường hợp con có địa vị, con càng dễ ảo tưởng con thông thạo hơn nữa. Ðại họa cho con và cho nhiều người vì sự bất lực ngạo nghễ của con (ÐHV 576).
* Tài không đủ, phải có đức. Tài của con người kiêu căng, khó chịu, chỉ để xử dụng với máy móc và chất hóa học, chứ không để yêu thương thuyết phục người khác (ÐHV 577).
Khi được bổ nhiệm làm Hồng Y Tổng Giám mục thành Milanô, Ðức Cha Ratti (sau này là Giáo hoàng Piô XI) rất lấy làm băn khoăn, lo lắng; bởi vì tuy là một người rất thông minh thánh thiện, nhưng chuyên môn của ngài là ngành ngoại giao và đặc biệt là ngành thư viện (ngài đã quản thủ thư viện Vatican trong nhiều năm); các công việc mục vụ của giáo xứ, giáo phận đối với ngài thật là vấn đề rất mới!
Bởi thế, khi mới về nhận giáo phận, trong suốt sáu tháng đầu, ngài đã khiêm tốn mời ông chủ tịch Công giáo Tiến hành ngày ngày đến Tòa Giám mục dạy vẽ cho ngài về phong trào đó: tinh thần, cơ cấu, tổ chức, chi tiết của mỗi ngành cũng như những thành công và thất bại của phong trào trong thời gian trước. Thế rồi, chỉ 6 tháng sau "thầy dạy" của ngài "hết chữ", đành phải công nhận "học trò" đã bao quát, tổng hợp được mọi vấn đề, chiều sâu cũng như chiều rộng. Bây giờ Ðức Hồng Y Ratti mới bắt đầu ngồi lại cùng các chiến sĩ hăng say trong giáo phận để vạch chương trình và ra sức thực hiện những quyết định độc đáo do ngài đề xướng. Công việc mục vụ được tiến hành cách mau lẹ, thành công, đem lại phấn khởi và niềm tin tưởng cho mọi người.
Mấy năm sau, ngài được bầu làm Giáo Hoàng dưới danh hiệu là Piô XI. Trong suốt 17 năm trên ngôi Giáo Hoàng, ngài đã mạnh mẽ xúc tiến khắp nơi vấn đề Công giáo Tiến hành. Dưới sự hướng dẫn sáng suốt của ngài, một đà tiến mới mẻ đã đưa những tâm hồn trai trẻ nồng nhiệt lao mình vào các hoạt động tông đồ ngay giữa lòng trần thế, tại những môi trường kỳ diệu đang mở ra trước mắt họ giữa thập niên 1930-1940. Ai ai cũng cảm nghiệm một nguồn sinh lực tươi vui mới mẻ đang ào ạt thổi vào, làm rung chuyển cả Thân mình Hội Thánh, đến nỗi mọi người đều đồng thanh kính tặng ngài danh hiệu: "Giáo Hoàng của Công giáo Tiến hành ". Ðứng trước sự kiện ấy, nhiều người lầm tưởng Ðức Piô XI đã có một chuỗi đời dày đặc kinh nghiệm về Công giáo Tiến hành; có ngờ đâu thành quả ấy chính là con đẻ của một lòng khiêm tốn kiên trì học hỏi và của sự can đảm thực hiện đúng lúc, không quản ngại những khó khăn, gian khổ...
2. Trên ngôi Giáo Hoàng vẫn còn học hỏi
* Làm việc! Học và hành không lìa nhau. Con sẽ gần thực tế hơn, con sẽ thấy: nói dễ, làm khó; con sẽ bớt phê bình, con sẽ gia tăng xét mình (ÐHV 567).
* Con hỏi "Học đến bao giờ?" - Học luôn mãi. Thế giới biến chuyển, tưởng sự hiểu biết của mình vô hạn (ÐHV 580).
Ðức Piô XII là một vị Giáo Hoàng rất thánh thiện, đạo đức đồng thời cũng là một bậc trí thức vĩ đại. Ngài vừa học vừa hành suốt đời. Hằng đêm, ngọn đèn cuối cùng của thành phố Roma bao giờ cũng là đèn phòng của Ðức Piô XII. Nó chỉ lịm tắt khi đồng hồ thong thả gõ một tiếng.
Ðức Piô XII học trong sách vở, qua các chuyên gia, bác học cũng như từ những kinh nghiệm phong phú đã đang của cuộc sống. Nếu đọc lại các diễn văn của ngài, ta sẽ thấy ngài đề cập đến rất nhiều vấn đề một cách hết sức sâu sắc: từ những vấn đề tôn giáo, thần học, Thánh Kinh, đến các đề tài chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, xã hội, gia đình, nghề nghiệp, chiến tranh, hòa bình... Ai cũng biết 4 giờ chiều là lúc ngài đi bách bộ trong vườn Vatican và đọc lại bài diễn văn của những ngày sau. Ðức Piô XII còn có biệt tài về ngoại ngữ. Những năm cuối cùng của cuộc đời, lúc ngài đã ngoài 80 tuổi, ngài vẫn còn học thêm nhiều ngoại ngữ. Trong các buổi triều yết, giáo dân rất lấy làm sung sướng ngạc nhiên mỗi lần nghe ngài nói thêm một ngoại ngữ mới.
Các diễn văn của ngài là những tài liệu rất quý giá đã được Công đồng Vatican II tham khảo trích dẫn rất rộng rãi. Ngài thường nói: "Cám ơn Chúa đã cho cha sống đến ngày hôm nay, trong một thế giới biến chuyển nhanh chóng với nhiều đau thương phức tạp, vì nhờ đó, cha có dịp học hỏi mãi và dấn thân phục vụ nhiều hơn".
3. Phép lạ không chấm dứt nỗ lực
* Ai có mười nén phải làm lợi mười nén. Ai có năm nén phải làm lợi năm nén. Ai có một nén cũng phải làm lợi một nén (ÐHV 561).
* Trách nhiệm càng cao mà thiếu khả năng nghề nghiệp càng khốc hại. Con muốn phó mạng trong tay một phi công, một bác sĩ không kinh nghiệm không? (ÐHV 564).
Ðọc truyện thánh Phanxicô Xaviê, ta thấy để đem Tin Mừng cho lương dân, có lúc Chúa ban cho thánh nhân nói thứ tiếng mà mọi người dân bản xứ ai cũng nghe như tiếng nói của mình; và cũng lắm khi "chân ướt chân ráo" đến một xứ lạ, ngài đã phải dùng thông ngôn để giảng đạo. Thế nhưng, chớ quên rằng thánh nhân đã phấn đấu rất nhiều để học thêm ngoại ngữ. Chính ngài đã đưa ra nguyên tắc sau đây cho các nhà truyền giáo thuộc quyền ngài: "Trong một thời gian nhất định, phải cố gắng học thuộc thổ ngữ của vùng mình phụ trách. Nếu ai lười biếng không đạt được yêu cầu, thì mặc dù ở trong tình trạng khan hiếm thừa sai, cũng phải gửi trả người ấy về lại Âu châu!".
4. Thiên tài phải đi đôi với đức hạnh
* Xem nghề nghiệp con là một ơn thiên triệu thực hiện ý Chúa giữa xã hội, con sẽ thánh hóa nghề con. (ÐHV 565).
* Hy sinh cho nghề nghiệp, tận tụy với văn hóa, phục vụ khoa học, cao đẹp lắm; nhưng con nhớ đây là phương tiện, không phải là cùng đích (ÐHV 566).
Những ai chuyên về điện và vô tuyến điện không thể không biết nhà bác học Marconi (1874-1937). Chính ông đã xây dựng hoàn chỉnh đài phát thanh Vatican và là một người bạn chí thân của Ðức Piô XI.
Người ta kể lại rằng, chính Marconi là người đầu tiên đã tìm ra "một thứ ánh sáng bí mật, có sức mạnh hủy diệt ghê hồn". Một hôm, ông mang phát minh ấy ra thí nghiệm cho nhà độc tài Phátxít Mussolini xem. Một cuộc tập trận giả có quân đội, vũ khí, chiến xa... được dựng lên. Ông Marconi và Mussolini cùng ngồi trong một chiếc xe ở đàng xa phía trước. Khi đã bố trí sẵn sàng đâu vào đấy, bàn tay Marconi nhẹ bấm vào nút phóng "tia sáng mới lạ" ấy ra thì... ghê rợn thay, toàn thể binh sĩ trong phạm vi luồng sáng chiếu qua đều ngã lăn ra chết, xe tăng, vũ khí lập tức ngưng hoạt động. Mussolini thích chí la lên: "Thành công mỹ mãn!" và yêu cầu nhà bác học Marconi trao ngay tất cả tài liệu về tia sáng ấy cho ông. Mussolini thầm nghĩ: "Với vũ khí này trong tay, từ nay ta sẽ bá chủ Âu châu và cả thế giới!" Ngược lại, Marconi một nhà bác học chân chính, có lương tâm Công giáo, thì lại nghĩ rằng: "Ðây là một thành tựu lớn lao của khoa học, nhưng nếu mà sa vào tay những tên độc tài Phátxít thì nó trở thành vũ khí vô cùng khủng khiếp và sẽ đem lại nhiều hậu quả không sao lường được". Mấy ngày sau đó, Mussolini càng thúc giục, Marconi càng nhẩn nha kéo dài thời gian hứa hẹn thêm. Rồi ngày ngày nhà bác học leo lên một chiếc thuyền con lững lờ trôi dọc theo bờ biển... Từ xa người ta sẽ lầm tưởng đó là một khách thanh thản nhàn du; nhưng nhìn kỹ, họ sẽ thấy một khuôn mặt âu sầu đang trầm tư nghĩ ngợi: "Làm sao tôi có thể trao những công trình nghiên cứu khoa học ấy vào tay những tên độc tài Phátxít được!"
Thế rồi, Marconi cuối cùng đã đi đến một quyết định can đảm.
Không mấy ngày sau, người ta nghe tin ông chết một cách đột ngột, mang theo tất cả mọi bí mật xuống đáy mồ. Tuy màn bí ẩn vẫn bao trùm lên cái chết ấy, nhưng nguyên nhân và thủ phạm gây nên nó, ai cũng đoán ra được dễ dàng!
5. Khoa học phục vụ đức tin
* Giờ học là giờ cầu nguyện. (ÐHV 558).
* "Hãy mến Chúa với tất cả quả tim con, với tất cả tâm hồn con, với tất cả sức lực con, với tất cả trí khôn con." Chưa học để phục vụ đúng mức, con chưa mến Chúa. (ÐHV 559).
* Học đây không phải là vào lớp hay văn chương khoa học. Học là luyện khả năng của con, nghề nghiệp của con cho tinh vi, hiện đại (ÐHV 562).
* Thanh niên, đời con đầy hy vọng, hăng say luyện đức và rèn tài. Bao nhiêu phấn khởi và tươi sáng vì con thao thức vươn lên lý tưởng tông đồ, môi trường của con. (ÐHV 570).
* Lên phi cơ, nhìn xe cộ, nhà cửa, người ta, loài vật, như đồ chơi của lũ trẻ; lên nguyệt cầu mới thấy địa cầu nhỏ bé. Người càng học hỏi thông minh, càng khiêm tốn, càng muốn học thêm (ÐHV 571).
* Nhiều người công giáo thông minh một khi sinh hoạt giữa xã hội lại giấu diếm tính cách công giáo của mình. Ðó là hạng "công giáo sơ-mi", tiện đâu thay đó (ÐHV 574).
Ðầu thế kỷ XX này, các nhà khoa học, kỹ thuật đã bỏ dưới đáy biển một dây cáp nối liền Âu châu và Mỹ châu. Kể từ đó, để liên lạc, người ta không cần gởi thơ lâu ngày mà chỉ cần điện thoại ngay cho nhau là có thể thông báo tin tức trong vòng một vài phút.
"Sẽ khánh thành đường điện thoại này bằng lời gì đây?, đó là câu hỏi mà các nhà khoa học đã đặt ra. Cuối cùng, lương cũng như giáo, tất cả đều nhất trí: Lời nói đầu tiên của Ðại Tây Dương sẽ là: "Vinh danh Thiên Chúa trên các tầng trời, bình an dưới thế cho người (thiện tâm) Chúa thương".
Ngày 21.7.1969, lúc Neil Armstrong, con người đầu tiên đặt chân lên mặt nguyệt cầu, các nhà khoa học đã muốn đặt trên ấy một vài kỷ niệm cho thế hệ mai sau. Họ đã mời các vị nguyên thủ quốc gia mỗi người viết một bức thông điệp ngắn để họ ghi khắc vào một chiếc dĩa nhỏ đặc biệt, làm bằng chất silicon mầu xám. Các bức thông điệp đều được chụp và thu nhỏ lại chỉ còn bằng cái chấm nỏ xíu, phải dùng kính hiển vi mới đọc được. Thông điệp của Ðức Thánh Cha Phaolô VI khởi đầu với câu nhập đề trong Tin Mừng Thánh Gioan: "Lúc khởi nguyên đã có Lời, và Lời ở nơi Thiên Chúa và Lời là Thiên Chúa... Mọi sự đã nhờ Người mà thành sự, và không Người thì đã không gì thành sự" (Jn 1,1-3). Ðoạn tiếp theo là thánh vịnh thứ 8, một thánh vịnh ca tụng vinh quang Thiên Chúa Tạo Hóa: "Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con. Lẫy lừng thay danh Ngài toàn cõi trái đất. Uy phong Ngài vượt quá trời cao. Ngắm trời xanh tay Ngài sáng tạo. Muôn trăng sao Chúa đã an bài. Thì con người là chi mà Chúa còn nhớ đến? Phàm nhân là gì mà Chúa phải bận tâm? So với Thần Linh, Ngài không để thua là mấy. Ban vinh dự huy hoàng làm mũ triều thiên. Kiệt tác của Ngài, Ngài cho làm bá chủ. Muôn loài muôn sự Ngài đặt cả dưới chân... Lạy Chúa, là Thiên Chúa chúng con. Lẫy lừng thay danh Ngài toàn cõi đất".
Tưởng cũng nên biết là khi Ðức Thánh Cha theo dõi những bước chân đổ bộ nguyệt cầu của con người đầu tiên, ngài đã ban phép lành Tòa Thánh cho phi hành đoàn Apollo XI bằng những lời lẽ như sau: "Danh dự, chào mừng và phép lành cho các con, những người chinh phục nguyệt cầu, ngọn đèn của đêm tối, của giấc mơ... "
Khoa học không đối nghịch với đức tin, nếu được xử dụng với thiện chí và tâm hồn ngay thẳng, vì cả khoa học và đức tin đều kiếm tìm các chân lý từ Thiên Chúa là Chân lý tuyệt đối, tuyệt hảo. Một trong những bằng chứng hiển nhiên nhất là khoa học chú giải Thánh Kinh được tiến triển mạnh mẽ trong những thập niên gần đây phần lớn là như những phát minh khám phá của khoa học. Như các nhà khảo cổ đã khai quật nhiều di tích trong phạm vị Thánh địa và đã xác định được những điều Thánh Kinh ghi lại về các điểm cũng như các sự kiện xảy ra ngày trước. Ðặc biệt nhất là khám phá ra rất nhiều bản sao Thánh Kinh tại các hang động Qumrân bên bờ biển Chết từ năm 1947.
Cũng nhờ khoa học kỹ thuật, mà các kỹ sư, kiến trúc sư, các nhà khảo cổ và sử học theo lệnh Ðức Piô XII, đã đào sâu dưới Ðền thờ Thánh Phêrô, ngay tại bàn thờ chính, và đã khám phá cũng như kết luận một cách chính xác sự kiện mộ thánh Phêrô (xác) và thánh Phaolô (đầu) chôn ở đây, theo đúng truyền thống Hội Thánh đã tin nhận suốt 20 thế kỷ qua.
Một trong những đóng góp đáng kể của khoa học vào lãnh vực đức tin trong thế kỷ 20 này là việc phát hiện ra mặt thực của dấu vết in trên bức khăn liệm thành Torinô nước Ý. Bức Khăn Liệm này là một thánh tích mà người ta cho rằng đã dùng để liệm xác Chúa Giêsu. Nó có in nhiều vết máu và thân thể lờ mờ của một kẻ bị đóng đinh. Người ta vẫn tôn sùng nó từ bao thế kỷ và đến năm 1898 thì nó đã được khoa học khám phá cách đặc biệt. Năm đó nó được chụp ra ảnh lần đầu tiên. Và khi rửa tấm phim, nhà nhiếp ảnh chính thức đã thấy hiện ra trên tấm phim hình một con người với những đường nét, góc cạnh, màu sắc của một bức ảnh thật. Người ta lúc ấy mới khám phá ra rằng các dấu vết in trên khăn liệm chỉ là mặt trái (âm bản) của một hình người thôi. Và từ đó trở đi, nhờ tấm phim của bức khăn (mà đúng ra phải gọi là một bức hình thật), các nhà khoa học đã có dịp nghiên cứu tấm khăn tường tận và thấy các dấu vết trên nó hoàn toàn phù hợp với những điều mà Thánh Kinh mô tả về Chúa Giêsu và về cuộc khổ nạn của Người. Họ đã dùng khoa nhiếp ảnh, giải phẫu, sinh lý, hoá học mà cho ta thấy khuôn mặt thật của Chúa Giêsu và biết được chi tiết cuộc khổ nạn Phục sinh của Người cách đây 2.000 năm vậy.
6. Học để phục vụ các linh hồn
* Muốn cách mạng thế giới, phải có ơn Chúa, nhưng con phải là khí cụ điêu luyện (ÐHV 563).
* "Ở nhưng" là cội rễ mọi sự dữ. "Ở nhưng" là sự dữ. Tông đồ không biết "ở nhưng". Không có "tông đồ hưu", chỉ đổi cách làm việc tùy sức (ÐHV 569).
* Hội Thánh ở giữa trần gian. Tất cả mọi kiến thức, khoa học đều được xử dụng để bênh vực và trình bày chân lý; càng hiểu biết con càng phục vụ Hội Thánh đắc lực hơn (ÐHV 572).
* Con hiểu biết một chân lý khi con tìm học chân lý ấy. Con càng thông hiểu rõ rệt hơn khi con tìm cách bênh vực chân lý ấy (ÐHV 581).
Mọi vị thánh đều phấn đấu khai thác triệt để những "nén bạc" mà Chúa ban hầu phụng sự Hội Thánh, phục vụ các linh hồn cách đắc lực và có hiệu quả.
Nhiều đấng có khả năng giới hạn đã phải nỗ lực học hành hết sức và vất vả như:
Thánh Maria J. Vianney. Chúng ta biết ngài được làm linh mục là nhờ "phép chuẩn". Vì tuy học hành kém cỏi, đầu óc mù tịt, nhưng nhờ có lòng đạo đức và sự bền chí mà ngài đã được thụ phong linh mục. Rồi khi làm linh mục, dù Chúa đã ban cho ngài lắm ơn đặc biệt để cứu các linh hồn cho đến nỗi một lần kia, quỷ Satan đã nói với ngài: "Nếu trên thế giới có hai đứa như mày thì bọn tao đành phải thất nghiệp". Nhưng ngài vẫn không ỷ lại vào ơn thánh. Cứ mỗi sáng thứ hai, ngài mang giấy bút lên phòng thánh để dọn bài giảng Chúa nhật sắp tới. Ngoài ra, ngài tiếp tục mua sách vở thêm để học hỏi. Ngày nay người ta còn giữ lại được một tủ sách khá lớn của ngài.
Thánh Giuse Cupertinô lúc làm chủng sinh cũng phấn đấu học hành "tróc xương, trầy da", nhưng đến kỳ khảo hạch nào cũng... trượt vỏ chuối! Bề trên biết ngài là người đạo đức, thánh thiện nỗ lực, muốn chọn làm linh mục, nên phải bày mưu lập kế cho ngài qua được kỳ thi. Lần nọ, trong lúc khảo hạch, thánh nhân được sắp đứng ở giữa hàng. Ðức Giám mục khởi sự khảo hạch các thầy đứng đầu, ai cũng đáp gọn gàng thông suốt khiến ngài rất hài lòng, và như để tiết kiệm thời giờ, ngài bảo: "Thôi, bây giờ khảo hạch mấy thầy ở cuối hàng xem có thuộc thần học không?". Các thầy đứng cuối hàng cũng không kém các thầy đứng trước, ai nấy đều thuộc bài trôi chảy. Ðức Giám mục xoa tay tuyên bố: "Vậy là đủ, tha hạch những thầy đứng ở giữa hàng". Curpertinô thoát khỏi một phen hú hồn, thở phào nhẹ nhõm, miệng tíu tít cám ơn bề trên. Sau đó ngài được làm linh mục, rồi làm thánh, và hơn thế nữa, ở Âu châu, người ta đã chọn ngài làm quan thầy cho những hạng... đi thi!
Bên cạnh những vị thánh phải học hành vất vả như trên, lại có những vị thánh tài ba xuất chúng, nhưng cũng hy sinh trọn đời để nghiên cứu, học hành và dạy dỗ:
Thánh Gioan Boscô rất thông minh, đã miệt mài tận dụng hết mọi khả năng để nghiên cứu, học hành, viết nhiều sách báo cho giới trẻ và soi sáng, hướng dẫn giáo dân tránh khỏi những lạc thuyết thời bấy giờ.
Thánh Maximilien Kolbe, một linh mục chuyên nghiên cứu và làm tông đồ bằng cách viết sách vở, làm báo chí. Lúc sang truyền giáo ở Nhật Bản, ngài thành lập nhà in xuất bản tạp chí. Khi bị lao phổi phải về lại Ba Lan, ngài tiếp tục hoạt động tông đồ bằng báo chí sách vở cho đến ngày vào tù và chết đói trong một trại giam Ðức quốc xã.
Thánh Albertô Cả là một ngôi sao sáng của thế kỷ XIII. Sau khi theo học Ðại học Padua, ngài vào Dòng Ða Minh và tỏ ra có khiếu về triết học, thần học. Nên sau đó, ngài lại được gọi sang Cologne (Ðức) để tiếp tục tu luyện. Khi đã đỗ đạt, ngài được mời làm giáo sư dạy các Ðại học Hildesheim, Fribourg, Rattisbone và Strasbourg. Danh ngài nổi nhất là thời kỳ làm giáo sư tại Ðại học Paris. Năm 1260 ngài được bổ nhiệm làm Giám mục thành Rattisbone và chết tại đó vào năm 1280, thọ 87 tuổi, để lại nhiều tác phẩm quý giá và đủ mọi vấn đề nhất là triết học và thần học. Năm 1942, Ðức Piô XI đã phong tước vị Tiến sĩ Hội Thánh cho ngài, và tôn ngài làm quan thầy những người chuyên môn về "khoa học tự nhiên".
Thánh Thomas Aquinô, người học trò thông minh xuất chúng nhất của thánh Albertô Cả. Nhờ bầu khí và hoàn cảnh gia đình. Thomas Aquinô đã được hấp thụ một nền học vấn chắc chắn ngay từ lúc còn nhỏ. Lớn lên, ngài lại được thụ huấn với thánh Albertô Cả. Nên mới 27 tuổi mà ngài đã là giảng sư Ðại học với một kiến thức uyên bác có thể hướng dẫn được giới trí thức thời bấy giờ đang say sưa nền triết lý của ngoại giáo Hy Lạp. Ngài chỉ sống đến 49 tuổi mà để lại một kho tàng phong phú khôn lường về thần học và triết học cho Hội Thánh. Trong đó công trình sáng chói nhất là bộ "Tổng luận thần học" mà muôn thế hệ sau này vẫn còn say mê nghiên cứu học hỏi. Cái độc đáo và ưu việt nhất của ngài là tổng hợp được kiến thức của thời đại, giải đáp được các vấn nạn đương thời và có nhiều trực giác vượt thời gian mà đến nay thần học đang khám phá thấy. Năm 1567, Ðức Piô V đã phong ngài làm Tiến sĩ Hội Thánh với biệt hiệu "Tiến sĩ thiên thần". Ðến năm 1880, Ðức Lêô XIII lại đặt ngài làm quan thầy các trường Công giáo và lấy học thuyết của ngài làm mẫu mực cho triết học và thần học của Hội Thánh.
Ðức Gioan XXIII cũng nêu gương sáng cho ta trong việc kiên trì học tập, bất kể tuổi tác và hoàn cảnh. Trong Công đồng Vatican II, các nghị phụ đều nhất trí dùng La ngữ làm ngôn ngữ chung, nên Ðức Thánh Cha tuy đã 81 tuổi, đầu tóc bạc phơ, vẫn phải luyện lại La ngữ. Trong tập hồi ký, ngài có viết: "Chúa nhật 9.9.1962: tiếp linh mục Ciappi để chuẩn bị diễn văn bằng La ngữ trong các phiên họp mà tôi phải chủ tọa (mỗi ngày 11 giờ)". "Thứ năm 13.9.1962 vẫn bàn chuyện đạo đức với linh mục Ciappi bằng La ngữ; tập nói lại cho quen". Ngoài ra ngài còn học thêm Anh ngữ trong suốt thời gian làm Giáo Hoàng.
Còn rất nhiều vị thánh khác mà ta không thể kể hết, cũng như có vô số giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân đã và đang đóng góp rất nhiều vào công cuộc phát triển thuộc đủ mọi địa hạt. Với một bầu nhiệt huyết nóng hổi của Tin Mừng, họ đã ra sức phục vụ nhân loại và Hội Thánh. Một số đã được mời làm chuyên viên trong ủy ban Công lý và Hòa bình Trung ương hoặc các hội đồng giáo dân là những cơ quan đã và đang, sẽ được Tòa Thánh tham khảo ý kiến về các vấn đề thuộc phạm vi thế tục. Một số khác được mời vào viện Hàn Lâm Khoa Học của Tòa Thánh.
7. Phương pháp làm việc trong Hội Thánh
* Hội Thánh cần sự hợp nhất của những bộ óc thông minh để đem tình yêu Chúa đến trong mọi lãnh vực trần thế. Hội Thánh đau khổ và rối loạn vì sự chia rẽ và lộn xộn của những đầu óc thông minh mà tâm hồn tự cao, tự đại. Các thiên thần dữ đã làm như thế (ÐHV 568).
* Tự xem mình "chuyên môn tất cả" là phản khoa học và lạc hậu. Thời đại này, muốn phục vụ, phải đem tất cả hiểu biết để hợp tác (ÐHV 578).
Hội Thánh có một phương pháp làm việc rất độc đáo: Một đàng Hội Thánh trông cậy hoàn toàn vào ơn Chúa, theo lời Chúa Giêsu đã phán: "Không Thầy chúng con không làm gì được"; đàng khác Hội Thánh dùng hết mọi khả năng, phương tiện của loài người. Nên thường thường, trước khi ban những lời giảng dạy, ra những quyết định, Ðức Thánh Cha đều có tham khảo các Ðại học Công giáo, các tổ chức bên cạnh Tòa Thánh gồm những Giám mục, linh mục, tu sĩ, giáo dân thuộc đủ mọi ngành mọi giới như vừa kể trên: Ủy ban Công lý Hòa bình, Hội đồng Giáo dân, Viện Hàn Lâm Khoa học.
Ngày 15.9.1965, Ðức Thánh Cha Phaolô VI còn lập thêm một tổ chức mới mang tên: "Thượng Hội đồng Giám mục thế giới", gồm có các đại điện các Giám mục của mọi quốc gia, ba năm họp một lần tại Roma, có Văn phòng thường trực, và trước mỗi khóa họp, chương trình nghị sự cũng như các tư liệu đều được gởi đi tất cả các giáo phận. Các Giám mục tiếp nhận các tài liệu ấy, tham khảo rộng rãi các ý kiến của giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân trong giáo phận, rồi gởi sang Văn phòng thường trực để kịp thời đúc kết và phổ biến lại trước khi khai mạc hội nghị.
Qua tất cả những cơ quan ấy, chúng ta thấy chính Ðức Thánh Cha lắng nghe, học hỏi, tham khảo liên lỉ, rồi cầu xin ơn Chúa Thánh Thần soi sáng mới đi đến những quyết định cụ thể.
Nếu trên thế giới có một tổ chức nào có một người cầm quyền tối cao và được triệt để vâng lời nhất, thì đó là Hội Thánh Công giáo. Nhưng ngược lại, nếu trên thế giới có một tổ chức nào dân chủ nhất, trong đó ai cũng được góp ý mà chẳng sợ có người theo dõi, trả thù... và mỗi ý kiến đệ trình đều được nghiên cứu, đánh giá một cách chân thành, không phe cánh, không mưu mô thì đó cũng là Hội Thánh Công giáo.
8. Cha đẻ tiếng Việt
* Nếu mỗi ngày con học thuộc một danh từ thôi, nếu mỗi tháng con đọc thêm một cuốn sách thôi, đến nay con đã tiến nhiều. Nếu đến nay con chưa làm, hãy khởi sự ngay từ hôm nay (ÐHV 575)
* Văn bằng chứng minh con đã thông minh một giai đoạn nào đó, đặc biệt lúc đi thi. Nếu sự học hỏi của con đứng ngang đó, dù một đống văn bằng cũng không bảo đảm sự thông minh của con (ÐHV 579).
Không người Việt Nam chính hiệu nào mà lại không biết đến tên cha Ðắc Lộ, một giáo sĩ người Pháp mà danh tính gắn liền mãi mãi với chữ quốc ngữ của dân tộc ta; nhưng thật rất ít người biết trong hoàn cảnh nào ngài đã làm nên một công trình vĩ đại như thế.
Ở đây, thiết tưởng ta nên nhắc lại những lời nói đầu tiên ngài ngỏ với dân bản xứ khi tàu vừa cập bến Cửa Bạng ngày 19.3.1627: "Ðây là tàu của người Bồ Ðào Nha, những người danh tiếng lừng lẫy khắp phương đông... Hiện giờ tàu của họ có chở một thứ hạt trai tuyệt đẹp và quý giá, ai mua thì cả đời được giàu có hạnh phúc muôn thuở. Không nên sợ giá cao, vì chẳng ai nghèo đến nỗi không đủ tiền để mua hạt trai ấy". Tổ tiên chúng ta mới khấp khởi vui mừng xin ngài ít là cho xem qua đôi ba hạt. Ngài trả lời: "Hạt trai ấy mắt xác thịt không thể xem thấy được, chỉ có trí khôn hiểu được mà thôi. Hạt trai ấy chính là lề luật Thiên Chúa, một cái gì quý trọng hơn trân châu và hàng hóa Ấn Ðộ. Chúng tôi sẵn sàng giảng dạy luật đó cho anh chị em, nên không ngại vượt biển băng ngàn đến đây".
Lúc ấy vào thời hai chúa Trịnh Nguyễn, một thời vừa có chiến tranh, vừa có cấm cách bắt đạo Chúa. Sự đi lại vô cùng khó khăn, nhất là đối với một ông tây "da hồng mũi lõ"! Vì thế, thường cha Ðắc Lộ phải giảng dạy, làm lễ, cử hành các bí tích ban đêm. Còn ban ngày, ngài di chuyển bằng cáng: hai người gánh một chiếc võng, ngài nằm trong đó, lấy chiếu che lại. Dạo ấy, từ sông Gianh đến Phan Rang, Phan Thiết chỉ có lưa thưa một vài giáo sĩ. Lắm lúc cả địa hạt rộng rãi ấy chỉ có một mình Cha Ðắc Lộ tung hoành. Ngài phải lẩn trốn nhiều vùng, phải âm thầm đi đi lại lại để củng cố giáo đoàn Ðàng Trong. Mỗi lần ra đến Huế, ngài lại còn lo cho cả giáo dân thuộc địa phận Ðàng Ngoài nữa. Các đại diện của giáo dân bên kia sông Gianh vào gặp ngài, chịu các phép bí tích, nhận chỉ thị để rồi trở về củng cố cuộc sống đức tin của các giáo hữu vắng bóng chủ chăn.
Khắp Ðàng Trong, không chỗ nào mà không in dấu vết chân cha Ðắc Lộ. Ba lần ngài bị phát giác phải đuổi về Macao, và mỗi lần như thế, đợi bầu khí hơi hơi lắng dịu ngài lại sắm sửa lễ vật sang dâng cho Chúa Nguyễn, đi theo ghe thuyền nhà buôn trở lại Việt Nam.
Không có văn phòng, quạt điện, máy điều hòa, thư viện, thiếu hẳn mọi tiện nghi tối thiểu, thế mà cha Ðắc Lộ soạn thảo thành công cuốn "Phép giảng 8 ngày cho những người muốn chịu phép rửa tội mà vào đạo Thánh Chúa Trời" và cuốn tự điển: "Ba thứ tiếng Việt-Bồ-La" gồm cả văn phạm tiếng Việt, cách dùng chữ La tinh thay chữ Nôm, lối phát âm... Ngài đã mang về ấn loát tại nhà in Vatican vào quãng năm 1651, làm nền tảng cho tiếng Việt ngày nay.
Dĩ nhiên ngài đã căn cứ vào công trình của những người tiên phong như cha Buzomi chẳng hạn. Nhưng ngài đã có công lớn trong việc tổng hợp, phân tách từ ngữ xác định văn phạm, phát âm và đưa tất cả đến tình trạng hoàn chỉnh để phục vụ Hội Thánh. Ngài đã thâm tín rằng: ngôn ngữ là khí cụ thiết yếu để đưa Tin Mừng đến cho mọi dân tộc, không phải chỉ trong chốc lát mà còn cho muôn vàn thế hệ mai sau. Chắc chắn phải có một tâm hồn hiếu học, một tinh thần tông đồ nồng cháy mới có thể kiên trì nghiên cứu, bảo quản và hoàn thành một công trình khó khăn như thế, giữa bao thử thách gian nan.
-----o0o-----
25- Phát Triển
1. Linh mục moi rác
* Mặc dù giúp đỡ anh em sung sướng bao nhiêu đi nữa, nếu con để họ thành những "bộ máy tự động", con chưa làm cho họ phát triển thực sự (ÐHV 587).
* Thực là khó! Nhưng con phải quyết tâm giúp cho người khác: - Biết vùng dậy. - Biết suy tư. - Biết tổ chức. - Biết chiến đấu. - Biết chống ngược ý con khi cần. Con sẽ hạnh phúc thật vì anh em cùng thăng tiến với con (ÐHV 593).
Trong trận thế chiến thứ hai, Âu châu lâm vào cảnh bị tàn phá, đói rách tột độ. Một linh mục ở Paris quen gọi là "Abbé Pierre" (Cha Pierre), quá xúc động trước cảnh cùng khốn của đồng bào, bèn nảy ra sáng kiến: Từ căn nhà bé nhỏ của ngài, ngài đã gọi điện thoại đến mọi người, nơi thì xin đôi giày, chỗ khác xin chiếc áo rách, người này xin gói cà phê, gia đình nọ lại được ngài xin một đôi vớ cũ...
Những kẻ mang quà đến cho ngài đều được chứng kiến tận mắt nhân vật "Abbé Pierre" và chỗ ở của ngài: một căn phòng tồi tàn, chật hẹp quá sức tưởng tượng, không đủ chỗ chứa những quà tặng nho nhỏ người ta đem đến. Họ rất đỗi xúc động và to nhỏ cùng nhau: "Có ngờ đâu một linh mục lại ở một căn phòng tồi tàn như thế!" "Ờ! thấy ngài như thế ai mà lại làm ngơ được!" Một thời gian sau. nhiều người tình nguyện đến giúp cha Pierre: kẻ thì biên sổ, kẻ thì đi nhận quà từ các gia đình, người thì mang quà đi phân phát... Tiếng tăm cha ngày càng đồn xa, nhiều người hưởng ứng, tổ chức càng lan rộng, từng triệu người đến cứu giúp, được nâng đỡ xây dựng lại cuộc đời.
Sáng kiến đẻ ra sáng kiến: Trong "đô thành ánh sáng" Paris có những người nghèo khổ quá sức tưởng tượng. Mỗi sáng sớm, trời còn mờ sương, lắm kẻ đã thức dậy, dùng một cây gậy có mũi nhọn, lang thang đến những hầm rác mà các gia đình vừa đổ ra trong đêm trước để bưới móc, xem cái gì còn xài được thì bỏ vô bị mang về nhà: thịt, xương, bánh mì... thì ăn, còn vụn thuốc xé ra bỏ vào ống điếu hút. Lắm lúc đánh lộn nhau bỏ mạng cũng chỉ vì một cục xương, miếng thịt... Cha Pierre thấy thế bèn nảy ra sáng kiến thành lập "Hội moi rác", tiếng bình dân quen gọi là "nhóm moi giẻ rách". Hội đã chia đô thành ra nhiều khu vực để các "thành viên" làm việc, khỏi đánh đập tranh giành nhau vì vấn đề rác nhiều rác ít!
Nhưng cha Pierre không dừng lại đó. Ngài tận dụng những dịp ấy để tiếp xúc với họ, nâng đỡ họ, tìm hiểu yêu thương họ, và cuối cùng đi đến chỗ biến đổi họ, huấn luyện họ biết tôn trọng lẫn nhau. "Nhóm moi giẻ rách" sau một thời gian đã biến thành "Cộng đoàn Emmaus", bao gồm những thành viên biết yêu thương nhau, đón tiếp nhau theo gương hai người bộ hành Emmaus xưa đã biết tiếp đón Chúa.
Cộng đoàn Emmaus không những chỉ moi rác, mà sau đó còn cùng nhau đi xin thu dọn những đống sắt vụn, giấy vụn, gỗ vụn... của các xí nghiệp phế thải rồi đem về bán lại cho người khác. Dần dần số vốn lên cao, họ chia sẻ cho nhau, tạo hạnh phúc ấm no cho các gia đình có chân trong cộng đoàn. Một số vốn khác được họ san sẻ cho các trẻ em nghèo, hoặc những gia đình đói khổ neo đơn, để rồi dần dần những người ấy cũng được khám phá hạnh phúc, tươi nở nụ cười sau những ngày lầm than đen tối.
Ngày nay cộng đoàn Emmaus đã lan tràn sang nhiều nước. Ở tại Nhật Bản, Cộng đoàn đã hoạt động rất đắc lực thu thập nhiều sản phẩm gởi đi phân phát cho các nước nghèo để họ cũng được phát triển mỗi ngày một hơn.
2. Người sáng lập tổ chức Caritas
* Bớt diễn thuyết về hạn hán ở Sahel, sóng thần ỏ Bangladesh, bạo động ở Nam Mỹ, nhưng hãy tìm thấy Chúa Giêsu bị bỏ rơi, kém mở mang kế bên con, dưới mái nhà con, bên kia vách tường con. Nếu quả tim nhân loại đã ráo cạn tình yêu. Nếu sóng thần của hận thù ích kỷ đã dâng cao, thì đại họa diệt vong không còn xa! (ÐHV 597)
* Phát triển nói cách cụ thể là một quả đất, ở đó Chúc thư Chúa Giêsu được thực hiện. Mọi người yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, san sẻ với nhau trong tình huynh đệ phổ cập (ÐHV 604)
Dưới ách thống trị độc tài Phátxít của Hitler, nhân dân Ðức quốc nói chung và người Công giáo trong nước nói riêng phải chịu một sự đàn áp hết sức độc dữ, man rợ. Lúc Phátxít Ðức lâm chiến chống lại khối Ðồng minh, thì cảnh cơ khổ lại càng gia tăng không kể xiết.
Ðức Ông Werthmann là một linh mục đã từng tham dự đại chiến thứ nhất, lập được nhiều công lao trong công tác xã hội nên được chính quyền ban thưởng một số huân chương có giá trị.
Thời ấy, linh mục nào có việc phải đến các văn phòng của đám thuộc hạ Hitler đều gặp phải rất nhiều khó khăn rắc rối. Thế nên, Ðức Ông Werthmann mới nảy ra sáng kiến: đi đâu ngài cũng mang huân chương đầy ngực. Nhờ đó, việc ra vô các văn phòng Phátxít lúc nào cũng dễ dàng. Ngài bèn lợi dụng uy tín để đi khắp nơi, tổ chức nhiều công cuộc bác ái, cứu trợ tối đa cho nhân dân đang lầm than, đói khổ.
Năm 1945, chiến tranh thế giới chấm dứt, nước Ðức hoàn toàn bị sụp đổ, tê liệt, lãnh thổ phải chia đôi và đặt dưới quyền kiểm soát các nước Nga, Anh, Pháp, Mỹ. Hội đồng Giám mục Ðức thời bấy giờ muốn Giáo Hội góp một tay vào việc tái thiết đất nước, nhưng không có một tổ chức Công giáo nào có tính cách toàn quốc để mà làm phương tiện cả. Các ngài đang nhóm họp, lúng túng thảo luận với nhau thì sực nhớ đến tổ chức Caritas của Ðức ông Werthmann. Ai nấy đều thở phào nhẹ nhõm, đồng tâm nhất trí chọn tổ chức ấy làm phương thế để hoạt động. Từ đó, công việc khiêm tốn và kiên trì của Ðức ông Werthmann trở thành một tổ chức quốc gia, rồi dần dần biến thành tổ chức Caritas quốc tế, đặt trụ sở trung ương tại Roma, trong khu vực các Tòa Bộ của Tòa Thánh. Tổ chức này chuyên cứu trợ nạn nhân thiên tai, đói kém, chiến tranh và những người tị nạn, dưới rất nhiều hình thức như phân phát thuốc men, thực phẩm, mở trường học, xây dựng lại nhà cửa và tìm nơi sinh sống định cư cho.
3. Bác thợ nề được giải Nobel
* Thiên Chúa muốn sự hợp tác của chúng ta trong việc tạo dựng cũng như trong việc cứu rỗi. Nếu Chúa làm một mình, công trình sẽ hoàn hảo hơn, nhưng con người sẽ kém "cao cả". Con hãy theo phương pháp của Chúa (ÐHV 584).
Cha Dominique Pire (1910-1968) gốc người Bỉ, thuộc Dòng Ða Minh, sáng lập viên nhóm "xây dựng" (Les Bâtisseurs) là người đã dấn thân tích cực vào công cuộc cứu trợ hàng triệu người từ Ðông âu sang tị nạn ở Tây âu sau đại chiến thứ hai.
Ngài là "Bác thợ nề " (với hai bằng tiến sĩ thần học và tiến sĩ chính trị xã hội học) đã thu hút được nhiều thanh niên đem hết bầu nhiệt huyết đi theo ngài từ nước này sang nước nọ để xây dựng hàng vạn nhà cửa cho những gia đình trong cảnh màn trời chiếu đất. Họ gồm đủ mọi hạng người, mọi lứa tuổi. Có những công nhân trẻ, những sinh viên, học sinh tự nguyện hy sinh cả kỳ nghỉ phép, nghỉ học của mình để đến một nước xa lạ để xây dựng nhà cửa cho những người khác màu da, khác sắc tộc, khác tiếng nói. Công việc bác ái tự nguyện ấy đã được cả thế giới nhiệt liệt hoan nghênh, khiến cha Pire đã lãnh được nhiều giải thưởng quốc tế, cao quý nhất là giải Nobel Hòa bình năm 1958. Nhưng niềm vui lớn nhất của ngài là đã đem lại hạnh phúc, an cư cho nhiều gia đình, nhất là tạo cho giới trẻ Âu châu một lý tưởng, một lẽ sống xinh đẹp.
4. Ông cha "thịt mỡ"
* Thảm kịch của người nghèo không phải chỉ là thiếu thốn, nhưng là vì họ không thể sống "xứng con người" (ÐHV 588).
* Chúa có thể chọn những người "thụ động", những người tội lỗi, hung hăng, rắc rối để hợp tác với Chúa (ÐHV 591).
Cũng sau kỳ đại chiến thứ hai, với làn sống người ồ ạt di cư từ Ðông âu sang Tây âu (nhất là ở Ðức), thực phẩm đã trở nên khan hiếm. Có nơi người ta phải ăn đến cả thịt chó, một điều ngoài sức tưởng tượng của người dân Âu Mỹ.
Một linh mục Dòng Prémontres, người Hòa Lan, tên Warenfried van Straaten đã lao mình cứu trợ trạng huống đáng thương ấy. Với một giọng nói thật tự nhiên, ngài đã lên tiếng ở đài phát thanh: "Xin cho tôi thịt mỡ ướp mặn" - Sao lại xin thịt mỡ ướp mặn? - Thưa vì thịt mỡ ướp mặn ăn được nhiều mì; nếu không mặn thì ăn mì với thịt rất tốn kém!
Chỉ trong vòng mấy tháng sau, người ta đã gởi đến cho ngài hàng ngàn tấn thịt mỡ. Ngài tiếp nhận và phân phát cho nhiều gia đình đang trong tình trạng đói khổ ở các trại tạm cư. Khắp Âu Mỹ ai cũng biết đến tên ngài. Nhưng biết thì biết mà than thở thì vẫn than thở: "Ồ! tên gì mà dài quá! thôi thì tạm gọi là "ông cha thịt mỡ" đi (le père au lard) và thế là tên ấy được phổ biến khắp thế giới. Sau một thời gian, tình trạng người di cư đã tạm ổn định, ngài liền biến tổ chức từ thiện của ngài thành một cơ quan cứu trợ tôn giáo, đáp ứng nhu cầu của những nơi Hội Thánh đang gặp khó khăn về vật chất cũng như tinh thần (tiếng Pháp gọi là "Aide à l'Eglise en détresse"). Bây giờ, tặng phẩm không chỉ là thịt mỡ ướp mặn mà thôi, nhưng còn là xe đạp, máy khâu, máy chiếu phim, loa, đài, xe máy, xe hơi 2 ngựa, xe tải... Tất cả đều được gởi đi các nước để đẩy mạnh công cuộc phát triển, đưa cuộc sống con người ngày càng xứng đáng với nhân phẩm mà Thiên Chúa đã muốn cho họ có được?
5. Giúp người phát triển
* Con đừng thỏa mãn khi đã giúp người ta. Con đừng làm việc dễ hơn cả: CHO. Chúa đòi con làm việc khó hơn, giúp kẻ khác để họ tự giúp lấy mình và để họ biết sẵn sàng giúp mọi người (ÐHV 583).
* Chúa dạy con, xong công việc, hãy nói: "Tôi là đầy tớ vô dụng..." Thực là sâu xa, giàu ý nghĩa. Vô dụng vì chính ơn Chúa đã làm, con là khí cụ. Vô dụng vì con không cần giữ anh em trong tình trạng thụ ơn, thua kém vĩnh viễn, nhưng con đã làm cho họ không cần đến con nữa (ÐHV 585).
* Hãy làm cho người khác lớn lên và con khuất đi. Hãy cho họ ít thua, đòi hỏi họ nhiều hơn. Hãy biết cứu họ và làm cho họ cứu kẻ khác. Ðừng khư khư giữ địa vị ân nhân, viện trợ, nhưng làm anh em của mọi người, phục vụ mọi người (ÐHV 586).
Joseph Frings! Người ấy là ai? Thưa là một nhạc sĩ nổi tiếng, một nhà thần học sâu sắc, đồng thời là một người có bộ óc thực tế và tâm hồn quả cảm.
Mặc dù cơ quan Caritas quốc tế đã được thành lập ở Ðức với nhiều kết quả đáng khen ngợi, thế nhưng ngài vẫn chưa thỏa lòng. Con người thực tế và quả cảm ấy còn muốn lập thêm một cơ quan mới với mục đích mới. Ðó là cơ quan "Misereor" (Thương xót) với mục đích "giúp người đang gặp khó khăn được phát triển, để rồi họ tự biết cứu lấy bản thân họ, và sau đó chính họ lại giúp người khác cũng được phát triển". Ngài cũng thúc đẩy thành lập một cơ quan tương tự để đặc biệt phục vụ cho người dân ở Châu Mỹ La tinh, lấy tên là "Adveniat" (Tiến lên). Hai cơ quan này đã giúp mở rất nhiều trường học chữ, học nghề, đào tạo chuyên viên kinh tế, tài trợ cho không biết bao nhiêu là tổ hợp, hợp tác xã, chương trình tự túc phát triển tại các nước đang mở mang trên khắp thế giới.
Hồng Y Joseph Frings luôn nhắc nhở nhân dân Ðức: "Lúc nước Ðức tan nát, thế giới đã giúp ta; nay ta phải giúp cả thế giới lại".
6. Quỹ phát triển thế giới
* Không phải vũ trụ hết chỗ ở, nhưng lòng người quá chật hẹp! Không phải hết súc vật để ăn, nhưng loài người chực vồ nuốt nhau như thú dữ (ÐHV 596).
* "Phát triển là danh hiệu mới của hòa bình". (Phaolo VI) (ÐHV 600).
* Bao lâu các quốc gia mở mang chưa bỏ một phần trăm lợi tức giúp các dân nghèo phát triển. Bao lâu 20% dân giàu trên thế giới còn chiếm hết 80% tài nguyên của nhân loại, thì hiểm họa thế chiến nguyên tử không thể tránh được. (ÐHV 601).
* Vạch kế hoạch và thực hiện viện trợ bất vụ lợi có triển vọng mang lại hòa bình hơn là các cuộc hội nghị hạn chế vũ khí hạch tâm, thượng đỉnh kinh tế... Phí giờ, phí của, chẳng ai tin ai! (ÐHV 602).
* Con phải là "Tông đồ phát triển" như Ðức Phaolô VI đã kêu gọi và chính Ngài đã là vị "Giáo Hoàng lữ hành vì phát triển và hòa bình" (ÐHV 603).
Ai đã tung sáng kiến kỳ diệu ấy ra? - Ðức Giáo Hoàng Phao lô VI. Thực vậy, đó là đứa con cưng của ngài, chào đời trong dịp ngài đi Ðại Hội Thánh Thể Quốc Tế ở Bombay (Ấn Ðộ), bên cạnh những người nghèo khổ của một quốc gia trong số mấy mươi quốc gia đang trên đường phát triển. (Ðiệp văn thế giới ngày 4.12.1964).
Với một lời lẽ tha thiết và cương quyết, Ðức Thánh Cha nhắc lại tổ chức ấy trong Thông điệp "Phát triển các dân tộc" công bố ngày 26.3.1967:
Ngân quỹ Quốc tế:
"Tại Bombay, chúng tôi đã kêu gọi thiết lập một ngân quỹ quốc tế đóng góp bởi một phần binh phí, để đem giúp những nước đói kém nhất.
"Chống nghèo đói cần thiết như thế nào, thì phát triển các dân tộc cũng cần thiết như vậy. Ngân quỹ quốc tế này vừa là hình ảnh vừa là khí cụ của sự hợp tác giữa các dân tộc. Chỉ có sự hợp tác như thế mới có thể giúp vượt qua được những tranh chấp vô ích và khơi nguồn cho một cuộc đối thoại phong phú và thanh bình giữa các dân tộc.
Sự khẩn thiết của ngân quỹ quốc tế:
"Ai mà không thấy rằng ngân quỹ quốc tế như chúng tôi đã đề cập tới, sẽ cho phép trích bớt đi một số chi phiếu mà người ta phải hao tốn vì sợ hãi hay kiêu căng.
"Một khi bao dân tộc còn đói khát, bao gia đình còn đau khổ vì túng quẫn, bao người còn chìm đắm trong dốt nát, bao trường học, bệnh xá, nhà ở hẳn hoi còn chưa được xây cất, thì tất cả những phí phạm, công hay tư, tất cả những chi tiêu huênh hoang của nhà nước hay cá nhân, tất cả đó trở thành một điều ô nhục không tha thứ được.
"Chính tôi có nhiệm vụ nặng nề phải tố cáo điều đó. Xin quý vị hữu trách hãy nghe chúng tôi, trước khi quá trễ". (Thông điệp Phát triển các dân tộc, số 51, 53).
Và Ðức Phao lô VI đã làm gương trước hết, ngài đã dạy bán nhiều động sản và bất động sản của Tòa Thánh để bỏ vào "Ngân quỹ phát triển".
7. Một thế giới tốt đẹp hơn
* Phát triển không phải chỉ là cho ăn, cho mặc, cũng không phải chỉ phát cày phát cuốc, đào giếng, đào mương. Phát triển là thăng tiến con người toàn diện, là làm cho họ sống "xứng người hơn." (ÐHV 582).
* Món quà tuyệt hảo mà con có thể tặng người giúp việc con không phải là chiếc áo đẹp, đôi giày tốt, cái đồng hồ quý, nhưng là "Tình Người", tình anh em mà con âm thầm tặng họ qua các cử chỉ nhỏ nhặt suốt ngày (ÐHV 590).
Trên đây cha đã nhắc tới một số người lữ hành đã có những hành động cụ thể, những sáng kiến độc đáo về lãnh vực phát triển trên con đường họ đã và đang bước đi. Giờ đây cha muốn nhắc đến những người đã vạch ra đường hướng, kế hoạch ấy cho toàn thể Giáo Hội.
Vị phải nhắc đến trước tiên là Ðức Thánh Cha Piô XII. Trong một bài diễn văn quan trọng, ngài đã vạch ra đường hướng căn bản bằng một câu nói thật rõ ràng và đầy ý nghĩa: "Xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn". Câu nói ấy đã được ngài giải thích: "Làm cho con người lạc hậu thành con người văn minh, làm cho con người văn minh thành con người của Chúa".
Hưởng ứng lời ngài, linh mục Lombard Dòng Tên đã mở một trung tâm ở ngoại ô thành Roma, kề trại nghỉ hè của Ðức Thánh Cha là Castelgandolfo.
Trung tâm ấy mang tên: "Một thế giới tốt đẹp hơn" có mục đích tạo môi trường thuận lợi cho các cá nhân hoặc đoàn thể muốn đến tĩnh tâm, dự khóa huấn luyện để nung nấu tinh thần phát triển; thêm niềm xác tín vào lời kêu gọi của Ðức Thánh Cha cũng như để nhận thức cách rõ ràng hơn về sứ mệnh của mình giữa lòng thời đại. Hiện nay trên thế giới, người ta đã mở nhiều trung tâm như thế để đem tia sáng ấy chiếu tỏa ra khắp nơi.
8. Kinh tế phục vụ con người
* Chấp nhận những người chỉ biết nằm, biết ngồi, chỉ muốn lẽo đẽo đi theo, muốn được giúp, được cứu, được cho, để con được làm anh trưởng, được luôn luôn cần thiết, thực dễ vô cùng! Nhưng con hãy luyện những con người trách nhiệm, những con người muốn đứng, những con người đáng làm người (ÐHV 592).
* Ðại họa không phải chỉ là đói khát, khốn khó của các dân tộc nghèo khó. Ðại họa chính là sự vô ý thức của các dân tộc nô lệ và bóc lột (ÐHV 599).
Cha Louis-Joseph Lebret (1897-1966), cựu sĩ quan Hải quân, là một tu sĩ Dòng Ða-minh người Pháp, đã có công khởi xướng và cùng với nhà chuyên môn giàu thiện chí khác (như cha: Th. Suavet, H. Quoist) lập nên một học thuyết, đồng thời cũng là một nhóm mang tên "Kinh tế và nhân bản (Economie et Humanisme) nhằm mục đích phát động một nền kinh tế phục vụ con người!
Sau khi nghiên cứu và đúc kết thành một học thuyết, một hệ thống thực sự, ngài đã cùng với các đồng chí cho xuất bản nhiều sách báo, vạch ra một đường hướng phục vụ thế giới mới mẻ, ai muốn hưởng ứng thì cứ vận dụng cách sáng tạo vào hoàn cảnh của địa phương mình.
Cha Lebret đã được mời du hành khắp thế giới (từ nhiều làng bên nước Pháp tới những xứ kém mở mang, từ trụ sở Liên Hiệp Quốc tới Hội trường Công đồng Vatican II) để trình bày đường lối của ngài về "kinh tế và nhân bản". Ngài nhấn mạnh rằng: "Phải làm sao để vừa phát triển nền kinh tế, vừa phát triển con người toàn diện về mọi mặt, vật chất cũng như tâm linh, và phát triển đồng đều trên mọi miền khắp thế giới".
Ngài đã để lại lời cầu nguyện sau đây thật đáng cho chúng ta suy niệm:
"Lạy Chúa lỗi tại con,
- Tại con không chân thành yêu anh chị em con,
- Tại con không cảm thấy đau khổ trước những sự khốn cùng của anh chị em con,
- Tại con hay thờ ơ lãnh đạm bên cạnh người xấu số,
- Tại con đã khinh dể nhiều người, nhất là những người nghèo hèn, những người có địa vị kiến thức kém hơn con,
- Tại con đã để cho kẻ khác phải chờ đợi con,
- Tại con đã quên hay thất hứa khi con đã hẹn với người ta.
- Tại con không giữ đúng như lời cam kết.
- Tại con không ăn ở dễ dãi với kẻ khác, không sẵn sàng với kẻ khác,
- Tại con không biết tìm hiểu hoàn cảnh của người ta,
- Tại con đã từ chối một sự giúp đỡ, theo tính ích kỷ của con,
- Tại con đã không ra tay xoa dịu một vết thương mà lẽ ra con phải làm,
- Tại con chỉ tới lui kết nghĩa với những người mà con mong sẽ đem lại lợi ích cho con.
- Tại con đã làm tổn thương người ta nhiều vì lời ăn tiếng nói của con,
- Tại con đã hạ bệ những kẻ đối nghịch với con,
- Tại con đã láo xược và ăn ở bất công,
- Tại con đã làm gương xấu quá nhiều...
Nên anh chị em con đã bị tổn thương nhiều vừa hồn vừa xác.
Lạy Chúa, lỗi tại con!!! Xin Chúa tha thứ cho con.
Và con cũng xin Chúa tha thứ cho những anh chị em vì lỗi con mà đã sống bất xứng".
(Còn tiếp)