Những Người Lữ Hành Trên Đường Hy Vọng. ĐHY PX Nguyễn Văn Thuận [6]

Thứ ba - 13/05/2025 20:37
Này, người lữ khách hôm nay thân mến! Nơi đây không cống hiến cho con những lời khuyên lơn răn bảo, cũng không thay con suy ngắm. Nhưng đây chỉ là những kinh nghiệm sống của các bậc Thánh và các người Thánh, "Những người lữ hành trên đường hy vọng". Họ có thật và họ sống thật!
 
15- Thánh Lễ

1. Khóc rồi lại cười

* Người thánh là người tiếp tục Thánh Lễ suốt ngày (ÐHV 350).

* Mỗi lần dâng Thánh Lễ là mỗi lần giang tay đóng đinh con lại trên Thánh Giá, và uống cạn chén đắng với Chúa. Ðây không có chỗ cho khán giả (ÐHV 357).

Mặt mày thánh Gioan Vianney nhăn nheo, xấu xí; nhà thờ xứ Ars lại lát gạch nung đất và nhỏ hẹp; ghế quỳ thì xiêu vẹo cũ kỹ, ngài cũng dâng lễ như mọi linh mục khác. Nhưng tại sao ai nấy lại chen chúc nhau đến dự Thánh lễ của ngài? Thưa vì ngài dâng lễ hết sức sốt sắng! Có lần giáo dân thấy ngài cầm Mình Thánh Chúa trên tay một hồi, nước mắt chảy ròng ròng sau đó nụ cười tươi nở lại trên môi... Họ lấy làm lạ mới tọc mạch hỏi: "Thưa cha, sao sáng nay cầm Mình Thánh Chúa, cha khóc rồi cha lại cười?"

Ngài đáp: "Lúc ấy ma quỉ cám dỗ cha ngã lòng trông cậy sẽ mất Chúa đời đời, nên cha lo sợ quá, cha khóc. Nhưng sự nhớ lại mình đang cầm Chúa trên tay nên cha thưa với Chúa: Lạy Chúa, con không chịu mất Chúa, con cần Chúa mãi, Chúa luôn ở với con! Nói thế rồi cha sung sướng quá đỗi phải bật cười".

Chúa Giêsu với cha thành là một. Người ta thấy Chúa Giêsu tế lễ trong cha: bí quyết lôi kéo mọi người đến với cha là ở chỗ đó!

2. Thánh lễ của cha Piô

* Biết giá trị của Thánh Lễ, dù xa, dù khó con cũng tham dự; càng hy sinh, càng thấy con mến Chúa (ÐHV 346).

* "Nhà tạm tốt đẹp nhứt, hào quang sáng chói nhứt, chân đèn rực rỡ nhứt, thánh đường uy nghi nhứt, là Linh Mục.
Ðặt một linh mục nguội lạnh ở vương cung thánh đường, không ai thèm gặp. Ðặt một linh mục thánh thiện trong một nguyện đường nghèo nàn, hẻo lánh, ai cũng tìm đến." (Cha Chevrier) (ÐHV 352).

Thường giáo dân thấy cha nào làm lễ lâu thì phàn nàn, kêu van, dài quá, chán quá, mệt quá... Nhưng lạ thay, cha Piô dâng Thánh lễ lâu đến 3 tiếng rưỡi đồng hồ mà các Hồng Y, Giám mục, giáo sĩ, giáo dân vẫn chen chúc nhau đến dự, còn lết đến gần bàn thờ để nhìn cha. Các Hồng Y, các Giám mục ấy lại làm lễ đại triều không hơn ngài sao mà lại đi dự lễ của ngài? Ai dự lễ do cha Piô làm cũng đều say sưa, sốt sắng, không biết mỏi mệt. Họ đồng thanh nói: "Thấy nét mặt cử chỉ ngài, chúng tôi như thể trông thấy Chúa Kitô đang phải thương khó trên bàn thờ thực sự. Ðức tin chúng tôi nhờ thế càng thêm vững vàng, lòng ăn năn sám hối càng thêm quyết chí, lòng mến Chúa ngày càng gia tăng. Ði dự lễ ngài mấy lần cũng không chán!" Từ Mỹ châu, Á châu, Phi châu, Úc châu, người ta băng rừng vượt biển đến một thị trấn nhỏ miền Nam nước Ý thì cốt để dự lễ của một tu sĩ già! Ở quê nhà họ không có ai làm lễ sao? Có chứ! nhưng ở đây, họ thấy Chúa Giêsu làm lễ.

3. Thánh lễ Giáng Sinh trong trại học tập

* Dù cô đơn nơi đèo heo hút gió, dù tăm tối trong ngục tù, con hãy hướng về các bàn thờ trên thế giới, nơi Chúa Giêsu đang tế lễ; con dâng lễ và rước lễ thiêng liêng. An ủi và can đảm sẽ tràn ngập lòng con (ÐHV 364).

* Thánh Thể làm cho ta hiệp nhứt trong Nhiệm Thể. Dâng lễ, dự lễ mà không yêu thương là mâu thuẫn, quái gở (ÐHV 362).

Một phóng viên báo chí người Anh bị cầm tù trong những tháng năm cách mạng văn hoá của Mao Trạch Ðông, lúc được trả tự do, có viết một bài báo nhan đề: "Thánh lễ Giáng Sinh của linh mục Shah". Trong đó ông thuật lại một câu chuyện vô cùng cảm động: "Tôi bị giam trong một trại ở miền Nam Trung quốc. Trong trại, có một ông già trạc 40 tuổi, tên là Shah. Người ta biết ông là một linh mục dòng Xitô, người Trung Quốc, trong trại ăn uống rất kham khổ, kỷ luật thì khắt khe, công tác lao động lại nặng nề. Chúng tôi phải đào đất và gánh những gánh thật nặng lên đổ trên một ngọn đồi cao. Lại còn phải khẩn trương không thì roi đòn vọt tới tấp, bị kỷ luật làm kiểm điểm. Linh mục Shah là một người rất có lòng bác ái. Ông không khỏe nhưng ai mệt liền được ông gánh giúp. Ai gánh nặng không nổi thì ông đổi cho gánh nhẹ của mình. Ông luôn luôn vui vẻ, động viên anh em. Trong trại ai cũng đem lòng mến.

Tôi là người Công giáo, nhưng suốt bao tháng năm tôi chẳng sống đạo tí nào. Tôi khô khan lắm. Không hiểu sao ông Shah biết tôi là người có đạo. Lạ quá! Một hôm, giữa trời đông giá rét, vào giờ giải lao, ông Shah cầm tay kéo tôi đi theo và nói:

- Anh là người Công giáo phải không?

- Phải!

- Hôm nay là lễ gì, anh có biết không?

- Tôi không biết!

- Lễ Giáng Sinh. Chắc anh nhớ gia đình, nhớ bao kỷ niệm. Thôi đi theo tôi, ta cùng xuống hố đất đàng kia. Tôi sẽ cùng anh dâng Thánh lễ.

Có một sức gì nơi ông thu hút tôi khiến chân tôi phải bước. Cả hai chúng tôi xuống một hố sâu. Chung quanh miệng hố, đất đào lên được đắp cao thành hai mô vững chắc. Tôi chẳng hiểu làm sao, ông lại có một tí rượu nho trong cái bát nhỏ và một mẩu bánh mì. Ông để cả hai trên mô đất, giữa cảnh hoang tàn giá rét. Ðôi tay ông giang ra. Ông cầu nguyện rồi đưa Mình Thánh Chúa lên cao. Nét mặt ông sáng ngời. Tôi chăm chú nhìn rồi tự nhiên đầu gối tôi khuỵu xuống. Tôi quỳ. Tôi cũng cầu nguyện. Tôi ăn năn sám hối. Ông cho tôi rước lễ. Mắt tôi nhoà lệ. Lòng tôi cũng như lòng ông ấm áp hẳn lên. Và chúng tôi vội vàng trở về chỗ cũ.

Một tên lính gác thấy chúng tôi tiến lại liền chạy ngay đến tóm cổ linh mục Shah và hỏi: "Mày đi đâu đàng kia?" Ông thẳng thắn đáp lời: "Hôm nay là lễ Giáng Sinh. Giờ giải lao tôi đi cầu nguyện". Tên lính liền vụt cho ông một trận đòn chí tử. Ông làm thinh chịu đựng. Hắn dẫn ông đi. Và từ hôm ấy, tôi không còn gặp lại ông ta nữa. Nhưng trong suốt cuộc đời tôi, tôi không bao giờ quên được cảnh tượng chiều hôm ấy: một dáng người cao cao, hai tay giơ lên, gương mặt gầy gò, nhưng toát vẻ thánh thiện, áo quần rách nát tung bay theo chiều gió, giữa trời và đất, ông Shah với Chúa! Chưa bao giờ và có lẽ sẽ không bao giờ trong đời tôi có một lễ Giáng Sinh sốt sắng như thế. Cũng từ ngày ấy, Ðức tin sống lại trong tôi..."

4. Vết chân nóng hổi

* Mặt trời sáng và tung tỏa ánh sáng. Thánh Thể là sự sống và nguồn phát xuất sự sống Thần Linh, sự sống hòa hợp giữa các dân tộc: "Thịt ta làm cho thế gian được sống." (ÐHV 361).

* Có thể triệt hạ tất cả thánh đường trên mặt đất, nhưng bất cứ đâu còn linh mục thì còn Thánh lễ, còn Thánh Thể. Có thể tiêu diệt tất cả linh mục, nhưng đâu có hai hay ba người hiệp nhau vì danh Chúa, thì vẫn có Chúa ở giữa họ (ÐHV 388).

Vua Thánh Venceslaô xứ Tiệp Khắc (907-929) có thói quen đêm nào cũng thức dậy đến nhà thờ để viếng Thánh Thể. Một đêm nọ trời đông giá rét, viên thị vệ theo hầu thánh nhân phàn nàn: "Trời lạnh quá, đi trên tuyết, chân hạ thần cóng cả lên". Vua Thánh Venceslaô quay lui, dịu dàng bảo: "Cứ chịu khó theo ta và đặt bàn chân ngươi lên vết chân ta". Viên thị vệ tuân theo và bỗng nhiên cảm thấy ấm áp lạ thường. Từ đó ông ta càng tin tưởng mến Chúa, theo gương Ðấng mình đang dẫm bước theo.

5. Các đèn chầu sống động

* Gia đình thánh thiện là gia đình hâm mộ Thánh Lễ (ÐHV 353).

* "Phải có đời đời để dọn mình, phải có đời đời để tạ ơn, vì dâng một Thánh Lễ" (Thánh Vianney) (ÐHV 354).

* Linh Mục cùng tế lễ với Chúa Giêsu, cùng trao mình với Chúa Giêsu, làm của ăn cho mọi người, bất cứ lúc nào, trao tất cả! (ÐHV 355).

Trong lịch sử Hội Thánh, không thánh nào mà lại không sùng kính Chúa Giêsu Thánh Thể. Nhưng trong số đó cũng có nhiều vị mà cuộc đời đặc biệt gắn liền với Thánh Thể như ngọn đèn chầu. Như thánh Anphongsô tuy đến ngày sức khoẻ già yếu nhưng đêm khuya vẫn lần mò từng bậc cấp lên xuống thang gác để đến cùng Chúa Giêsu Thánh Thể. Thánh Phanxicô Carracciôlô, Thánh Pascal Baylon... chuyên rao giảng về tình yêu Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể, lập nhiều thiện hội tôn sùng chầu kính Bí tích cực trọng đó. Thánh Rymard thì lập dòng Thánh Thể với đặc điểm ngoài các công việc mục vụ khác, trong nhà thờ của Dòng đêm ngày đều đặt Mình Thánh Chúa và cứ thay phiên nhau, mỗi lượt hai linh mục mặc áo các phép mang dây stola quỳ chầu Chúa Giêsu Thánh Thể.

Thánh nữ Magarita Maria, ngay lúc còn nhỏ, đã có lòng yêu mến Chúa Giêsu Thánh Thể đến nỗi mỗi khi cha mẹ ngài thấy con mình vắng mặt, thì chỉ cần chạy đến nhà thờ thì thấy ngay con bé đang quỳ chầu Chúa Giêsu Thánh Thể ở đó. Lòng trí Thánh nữ hằng luôn khao khát dự mọi Thánh lễ, linh hồn thì luôn kết hợp theo dõi các linh mục dâng lễ trong mọi lúc, ngày cũng như đêm. Có thể nói được rằng, cuộc đời của Thánh nữ chỉ nghĩ đến Thánh Thể; không mấy lúc ngài quên nhớ đến Chúa Giêsu ngự trong Bí tích đó. Thánh nữ viết: "Chúa dạy tôi dâng lễ như sau: khi con dâng lễ phải cầm lòng, cầm trí sốt sắng, nguyện cầu tha thiết như Ðức Mẹ xưa đứng dưới cây Thánh giá của Thầy".

6. Ðền thờ Montmartre

* Ðèn không sáng nếu hết dầu, xe không chạy nếu cạn xăng, hồn tông đồ sẽ suy mạt nếu không đến với Thánh Thể: "Ai không ăn thịt Ta và uống máu Ta, chẳng được sống đời đời" (ÐHV 360).

* Người công giáo "Chúa Nhựt" không đủ sức để cải tạo thế giới vật chất ngày nay. Sống Thánh Lễ là bí quyết để đem Chúa cho thế giới và đưa thế giới đến với Chúa (ÐHV 366).

Trong thành phố Paris diễm lệ, vùng Montmartre được xem như một nơi đầy tội lỗi trụy lạc nhất. Nhưng cũng ngay tại đó lại có mọc lên một ngôi đền thờ rất lớn kính Thánh Tâm Chúa Giêsu và có chầu Thánh Thể liên lỉ. Mình Thánh Chúa được đặt trong chiếc Hào Quang cao ba thước, phải có bậc thang để đi lên phía sau mới thay được.

Ðiều đáng cho chúng ta cảm phục và bắt chước là khắp nơi nước Pháp cũng như nhiều nơi trên thế giới có người tình nguyện đăng ký đến chầu một, hai ngày nhất định trong mỗi năm. Ðúng ngày đã định, họ đến nhận phiên chầu tại Montmartre, hết phiên lại trở về. Ngay trong thành phố Paris cũng có một số người tự nguyện sẵn sàng "thay thế" trong trường hợp một ai đó ở xa bị trắc trở không thể đến được. Mỗi lần như thế ban tổ chức chỉ cần gọi điện thoại là họ đến ngay cùng Chúa Giêsu Thánh Thể để chầu thay cho người phương xa đang mắc kẹt, và cũng thế cho bao người tội lỗi đang mãi mê trong những ổ trụy lạc dưới chân đồi.

7. Tông đồ Thánh Tâm

* Cả cuộc sống con phải loan truyền việc Chúa chịu chết và tuyên xưng việc Chúa sống lại (ÐHV 369).

* Ðời con là một Thánh Lễ: lúc sám hối đọc kinh "thú tội", khi tha thiết đọc kinh "Lạy Cha", lúc hân hoan hát kinh "Vinh Danh", hồi vui mừng hát "Alleluia".
Nhưng con không ngừng "Dâng lên Chúa"
"Anh chị em hãy cầu nguyện",
"Tin kính một Thiên Chúa là Cha",
"Hiệp nhứt cùng nhau nhờ Chúa Thánh Thần", và
"Thông hiệp cùng Hội Thánh Chúa lan rộng khắp hoàn cầu" (ÐHV 372).

Trên thế giới ai cũng biết tên Cha Matêô Crawley, một linh mục thuộc Dòng Hai Thánh Tâm ở Picpus nước Bỉ. Sau khi được Chúa cho lành bệnh thổ huyết rất nặng, ngài đã tình nguyện đi khắp thế giới để rao giảng về Thánh Tâm Chúa. Không ai lại không hay biết cuốn sách nổi tiếng của Ngài: "Chúa Giêsu Vua Tình Yêu". Ngài đã phổ biến khắp nơi phương pháp: "chầu giờ thánh ban đêm trong gia đình". Mỗi gia đình tự do nhận lãnh mấy giờ trong mỗi tháng và mỗi người trong gia đình có tình nguyện thức một giờ ban đêm cầu nguyện, đền bồi phạt tạ, an ủi Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Cha đã thấy nhiều cụ già tại các xứ đạo Việt Nam hưởng ứng rất nồng nhiệt. Họ hy sinh rất nhiều cho công việc "Chầu giờ Thánh ban đêm trong các gia đình". Họ có cuốn sổ ghi tên đêm nào, gia đình nào, người nào sẽ làm giờ thánh. Và chiều chiều họ xách chiếc đồng hồ reo cũ kỹ lại đàng nhà ấy để nhắc nhở cho gia đình ấy nhớ mà thức cầu nguyện; chiều mai họ lại lấy đồng hồ mang sang gia đình khác. Họ làm thế với mục đích duy nhất: an ủi Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Giêtsêmani.

8. Thánh lễ cuối cùng

* Mỗi khi trao Chúa Giêsu Thánh Thể cho giáo dân, con hãy ý thức trao cả đời con, thời giờ của con, sức khỏe, tài năng, tiền của, nghĩa là máu thịt con cùng với Mình Máu Thánh Chúa làm của nuôi mọi người và mỗi người không phân biệt ai (ÐHV 376).

* Hằng ngày cùng với Chúa Giêsu, con dâng hiến mình, sẵn sàng từng giây phút, để "bị nộp" vì anh em con, để "đổ máu ra cho nhiều người được tha tội" (ÐHV 377).

Trong thời Cách mạng Pháp, rất nhiều linh mục, tu sĩ bị giết, trong số đó có một linh mục khi vừa bước lên thang máy chém, đã hát to câu: "Tôi sẽ bước lên bàn thờ!" Vâng, đây là Thánh lễ cuối cùng của đời ngài và là một Thánh lễ đẹp nhất. Ngài dâng máu mình hòa với máu Chúa Giêsu Thánh Thể.

Trong một thánh đường ở nước Ðức có một tấm bia trên đó có ghi hàng chữ: "Nơi đây, Luthêrô đã dâng Thánh lễ cuối cùng". Kinh khiếp và đau xót làm sao! Vì sau Thánh lễ ấy, Luthêrô đã lìa bỏ Hội Thánh, bỏ Dòng tu (dòng Augustin) mà ông ta là bề trên giám tỉnh để đi kết bạn, lập phái Tin lành Luthêrô. Một hôm giữa cảnh trời trăng sao, bà vợ ông bảo: "Anh xem cảnh trời trăng sao đẹp quá!". Ông đáp: "Nhưng không đẹp cho chúng ta đâu!".

9. Thánh lễ mở tay

* Con muốn hỏi: "Cách gì đẹp lòng Chúa hơn cả?" Hãy tham dự thánh lễ, vì không kinh, không tổ chức, nghi thức nào bằng lời nguyện và hy lễ Chúa Giêsu trên thánh giá (ÐHV 349).

* Ðời con chỉ có một mộng ước; nó thành trọng tâm thu hút và điều khiển tất cả tâm trí và hành động của con: Thánh lễ như Chúa Giêsu suốt đời "rất mong ăn lễ Vượt Qua" (ÐHV 380).

Ðức Cha Berteaud, Giám mục địa phận Tulle, luôn luôn mang trong mình kỷ niệm Thánh lễ mở tay, Thánh lễ đầu tiên trong đời linh mục của ngài; đến nỗi sau 40 năm làm linh mục, khi thấy ngài làm lễ, có người đã nói: "Ðức Cha Berteaud luôn luôn làm lễ mở tay!".

10. Thánh lễ vô giá

* Xưa nay ai thấy những người dự lễ nghèo cực hơn kẻ khác vì mất giờ không? (ÐHV 347).

Một chúa nhật nọ, trời mưa rét, lạnh lẽo, ông Mazoni (1785-1873) một thi sĩ trứ danh nước Ý, đứng lên từ giã các bạn để đến nhà thờ tham dự Thánh lễ. Các bạn khuyên ông: "Trời mưa lạnh, nhà thờ lại xa, thôi để Chúa nhật tới..." Thi sĩ Mazoni duyên dáng đáp: "Trong các bạn, nếu có ai mất 100 ngàn lires (tiền Ý), chắc không chịu ngồi chờ cho đến khi ấm áp mới đi tìm. Nhưng 100 ngàn lires là gì sánh với một Thánh lễ!".
-----o0o-----

16- Vâng Phục

1. "Vâng phục - Bình an"

* Một đạo binh kỷ luật là một đạo binh hùng mạnh. Một tông đồ vâng phục là một tông đồ anh dũng (ÐHV 391).

* Chúa Cứu Thế đã cách mạng, muôn triệu người hưởng ứng, khẩu hiệu của Ngài: "Vâng lời đến chết" (ÐHV 395).

Ngày Ðức Roncalli (về sau là Giáo Hoàng Gioan XXIII) thụ phong Giám mục, ngài được vào yết kiến Ðức Piô X để tạ ơn. Ðức Giáo Hoàng hỏi:

- Con chọn khẩu hiệu nào?

- Thưa "Vâng phục và bình an".

- Tại sao con chọn khẩu hiệu đó?

- Thưa Ðức Thánh Cha, lúc con còn là học sinh, chiều nào con cũng thấy Hồng Y Daronius đã già cả đi qua công trường Thánh Phêrô. Mỗi lần như thế, ngài đều lấy một ít tiền tặng cho các người nghèo, đoạn vào thẳng đền thờ Thánh Phêrô, đến ngay trước tượng Thánh nhân và hôn chân ngài, rồi gục đầu vào chân tượng, đọc thực lớn tiếng: "Vâng phục và bình an", ai ở gần đó đều có thể nghe được. Ðọc xong, Hồng Y khả kính đó đến quỳ gối cầu nguyện trước mồ thánh Phêrô, tỏ lòng cung kính, vâng phục và trung thành với Hội Thánh rồi ra về. Hình ảnh cao đẹp và tiếng nói đanh thép ấy đã ghi sâu vào tâm trí con, nên con chọn câu nói ấy làm khẩu hiệu.

Nghe qua Ðức Thánh Cha rất cảm động, hài lòng và đưa bàn tay chúc lành cho tân Giám mục Roncalli. Khẩu hiệu ấy đã được vị Giám mục thực hiện trong suốt cả đời ngài.

2. Tấm gương vâng phục của hai nhà Bác học

* Thế gian bảo con vâng phục như vậy là "điên khùng". Chúa nói con vâng phục vì Chúa là "anh hùng" (ÐHV 393).

* Không vâng lời, dù có thực hiện những công trình vĩ đại cũng không đẹp lòng Chúa. Chúa chỉ quý lòng con, Chúa không cần công trình của con, Chúa tạo dựng cả vũ trụ không cần con (ÐHV 400).

Cha Lagrange (1855-1938) Dòng Ða Minh là một nhà bác học chuyên môn về Thánh Kinh rất nổi tiếng. Người ta nói rằng: kể từ Thánh Giêrônimô người đã dịch toàn bộ Thánh Kinh ra tiếng La tinh đến nay, chỉ có cha Lagrange là sánh kịp.

Cha Teilhard de Chardin, một linh mục Dòng Tên (1881-1955), cũng là một khoa học gia tên tuổi, đã viết nhiều tác phẩm lừng danh về khoa học, thần học lẫn triết lý, tu đức.

Khi các tác phẩm của hai linh mục danh tiếng ấy bắt đầu xuất bản, thì có một vài điểm trong đó đã bị dư luận xuyên tạc, hiểu lầm, khiến Thánh Bộ Ðức Tin đã yêu cầu các ngài ngưng ngay việc phổ biến chúng, đồng thời hãy cố gắng tìm cách giải thích những chủ trương, tư tưởng mới lạ của các ngài rõ ràng hơn, sao cho phù hợp với Giáo lý công giáo, tránh sự hiểu lầm lạm dụng...

Ðã là người ai lại không có tự ái được; với lại các đấng đâu phải là tay tầm thường: Cha Lagrange là người có uy tín nhất về Thánh Kinh trên toàn thế giới. Chính ngài đã có công xây dựng trường Khảo cổ Thánh Kinh tại Giêrusalem và lúc ấy đang làm Giám đốc. Cha Teilhard de Chardin là người không những chỉ có uy tín ở Âu châu mà cả Á châu nữa, cũng chịu ảnh hưởng, vì bấy giờ ngài còn đang nghiên cứu khoa học và dạy tại một đại học nổi tiếng ở Trung quốc. Hơn thế, tác phẩm của các ngài lại rất đỗi công phu, quý giá, ai cũng chờ đợi; vậy mà nay phải đình chỉ phổ biến, phải sửa chữa, tu chỉnh. Thế nhưng, các ngài vẫn khiêm tốn vâng lời Tòa Thánh, thinh lặng đợi chờ và tiếp tục nghiên cứu, mặc cho báo chí bên ngoài khai thác rùm beng.

Sau nhiều năm đào sâu thêm vấn đề, sắp xếp và giải thích các chi tiết cần thiết, tác phẩm của các ngài đã được Tòa Thánh cho phép xuất bản và thành công rực rỡ. Mọi người, mọi giới đều ca ngợi sự thông thái của các ngài, nhưng nhất là khâm phục lòng khiêm tốn vâng lời của các ngài đối với Tòa Thánh.

3. Không ăn bánh sữa

* Trinh khiết là chết cho nhục dục, vâng phục là chết cho ý riêng (ÐHV 402).

* "Vâng lời trọng hơn của lễ" vì của lễ là hoa quả, hương trầm, súc vật, tiền bạc, v.v... Khi vâng lời, con lấy chính mình con làm của lễ, giết chết ý riêng con, tự ái của con làm của lễ toàn thiêu (ÐHV 406).

Trong hạnh bà thánh Magarita Maria, cha Rolin có ghi lại câu chuyện sau đây chứng tỏ tinh thần vâng phục sáng ngời của vị Thánh nữ:

"Từ bé, tôi đã không thể ăn một chút bánh sữa (pho-mát). Nguyên chỉ nghe mùi nó, tôi cũng đã nôn mữa ngay. Ngày dẫn tôi vào dòng, anh tôi đã trình rõ cho Bề trên về việc này. Bề trên hứa sẽ không bao giờ bắt tôi ăn bánh sữa. Vị Bề trên kế tiếp là Mẹ Anna cũng thế. Nhưng đến đời Mẹ Rosalia làm Bề trên, bà nhất quyết ép tôi ăn bánh sữa cho kỳ được. Lúc ấy tôi lấy làm quá ghê tởm, và nếu không vì lòng mến Chúa, kính yêu Nhà Dòng thì tôi đã bỏ dòng mà đi. Nhiều lần tay tôi đã cầm bánh sữa lên, nhưng không sao đưa vào miệng được, đành phải bỏ xuống. Một hôm, tôi đang quỳ trước nhà chầu cầu nguyện sốt sắng, tôi nghe rõ tiếng Chúa phán bảo tôi: "Ai thực lòng mến Ta thì vâng lời trong mọi sự". Tôi bèn quyết tâm dù chết cũng vâng lời Bề trên. Vào nhà cơm, tôi cầm lấy bánh sữa lên ăn ngay trước mặt Bề trên và các chị em trong dòng. Nhưng vừa nuốt xong, tôi liền nôn mửa và kéo dài tình trạng ấy cho đến tối. Mấy ngày sau, tôi lâm bệnh phải nằm nhà liệt.

Tôi chấp nhận tất cả và vâng lời như thế trong suốt tám năm trời. Khi bệnh tình đã đến lúc trầm trọng, người tôi gầy yếu hẳn đi, bấy giờ bề trên mới cho phép tôi ngưng ăn bánh sữa".

4. Người con của đức vâng lời

* Xem một tâm hồn vui vẻ và nhanh chóng vâng phục chừng nào, con đoán được tâm hồn đó thánh thiện chừng ấy (ÐHV 392).

* Vâng phục trong thinh lặng, sự thật sẽ giải thoát con. Thinh lặng 5 năm, 10 năm, cả đời con. Thinh lặng trong sự chết... Chúa biết con đủ rồi, và ngày tận thế nhân loại cũng sẽ biết (ÐHV 405).

Cha Piô thuộc hàng ngũ con cái của thánh Phanxicô Assisiô. Cư ngụ tại tu viện San Giovani Rotondo, miền Nam nước Ý.

Ngài là người được Chúa in Năm Dấu Thánh trên mình. Ngày đêm máu thấm ra liên lỉ và gây đau đớn nhức nhối cho ngài như Chúa Giêsu trên Thánh giá năm xưa. Mặc dù đôi tay ngài được mang găng và lót bông, nhưng máu vẫn thấm ra tươi rói.

Bên ngoài, từ hàng giáo phẩm đến các giáo dân, ai cũng mến yêu khâm phục ngài như vị Thánh sống. Họ đến dự Thánh lễ của ngài, sốt sắng, xưng tội với ngài, vì ngài được ơn biết nhiều sự kín nhiệm trong tâm hồn người ta. Thế nhưng bên trong nhà Dòng lại có một số anh em tị hiềm nghi kỵ. Ngài ở tầng lầu bên này, họ ở các nhà bên kia, nhưng ngày đêm theo dõi rình rập, xem thử ngài có ăn vụng gì không. Họ không hiểu nổi tại sao ngài có thể ăn chay lâu đến thế! Cha Piô quá rõ điều đó, và tâm hồn rất đau đớn nhưng vẫn âm thầm chịu đựng.

Hơn thế nữa, họ còn bảo cha: "Cha Piô quào cấu cho rách tay chảy máu chứ đâu có Dấu Thánh!" Họ yêu cầu Bề trên đưa ngài ra phòng mạch bác sĩ để khám, xem ngài như một tên lừa đảo, đạo đức giả. Thật là đau đớn tủi nhục, nhưng Cha Piô vẫn bình tĩnh vâng lời. Và Chúa đã thưởng công ngài: sau một thời gian khám nghiệm, chụp hình hai bàn tay, các bác sĩ đã nhất trí xác nhận: "Ðây là một trường hợp khoa học không thể giải thích được. Hai lỗ đinh nơi đôi tay của ngài lớn đến nỗi người ta có thể nhìn thấu qua mà đọc những dòng chữ đặt ở bên dưới".

Cha Piô còn phải liên tục chịu nhiều thử thách vô số; nhưng sau đây là cơn thử thách nặng nề hơn cả: Số là có nhiều giáo dân khắp năm châu đến xưng tội với ngài. Nhờ ngài họ đã làm lại cuộc đời, nên mang của cải đến dâng ngài để làm việc thiện. Có người sau khi cho tất cả sản nghiệp, còn tình nguyện ở lại phục vụ dưới quyền ngài nữa. Với số tiền khổng lồ ấy, ngài đã xây nhiều bệnh viện miễn phí, nhiều nhà đón tiếp mọi người đến tĩnh tâm. Ðức Thánh Cha Piô XII rất quý mến ngài, nên đã cho ngài được phép quản trị và sử dụng số tiền người ta dâng cúng để làm việc bác ái đạo đức, cũng như gây vốn để đài thọ chi phí cho các bệnh viện, nhà tĩnh tâm vừa nói. Công việc tốt đẹp ấy ngày càng phát triển...

Một hôm vị Tổng quản lý nhà dòng mang hết tiền bạc của nhà dòng và vay mượn thêm ở ngân hàng một số lớn để hùn vốn trong một "áp-phe" (vụ làm ăn) mang tên "áp-phe Dreyfus". Cha Piô biết được rất đau lòng, vì đó là một việc rất phiêu lưu, vừa trái với tinh thần khó nghèo của vị Thánh sáng lập.

Quả thế, sau đó ít lâu, "áp-phe Dreyfus" sụp đổ và gây tai tiếng khắp nơi. Vị Tổng quản lý nhà dòng hết sức hoảng hốt, chỉ còn một cách duy nhất là bán hết các cơ sở của nhà dòng để trả nợ cho ngân hàng. Nhưng phép đâu mà bán nhà dòng? Ông liền nghĩ ngay đến số vốn của cha Piô, và lợi dụng Ðức Piô XII mới băng hà, Tòa Thánh đang bề bộn công việc, để thi hành một diệu kế. Mấy ngày sau đó, theo đúng kế hoạch của vị Tổng quản nhà dòng San Giovani Rotondo đệ trình lên Tòa Thánh một tờ đơn với nội dung: "Nay cha Piô đã già, xin Tòa Thánh rút lại đặc ân của Ðức Piô XII đã cho phép ngài quản trị số vốn người ta dâng cúng để lo việc đạo đức bác ái, và giao số vốn ấy lại cho nhà dòng quản lý thay". Tòa Thánh thấy trình bày hợp lý, lại thêm đang ở lúc giao thời giữa hai triều đại Giáo hoàng, chẳng ai rõ ý định của Ðức Piô XII lúc trước, nên Tòa Thánh đã chấp thuận.

Một buổi chiều nọ, Bề trên gọi Cha Piô đến và trình bày rõ ràng quyết nghị của Tòa Thánh. Ngài cho phép Cha Piô tự quyết định: chấp thuận hoặc khiếu nại. Cha Piô xin phép được suy nghĩ trong ít ngày. Suốt đêm hôm ấy, cha trằn trọc, khổ tâm, vì biết đây là âm mưu đen tối của vị Tổng quản lý. Rồi đây các bệnh viện, nhà tĩnh tâm lấy đâu ra tiền để đài thọ? Số phận biết bao người nghèo sẽ đi về đâu? Cha vô cùng buồn khổ như đang cơn hấp hối.

Nhưng người con khiêm nhường ấy đã phó thác mọi sự trong tay Chúa. Không đợi lâu, ngay sáng hôm sau, Cha Piô mang tất cả sổ sách đến gõ cửa văn phòng Bề trên. Ngài đặt tất cả trên bàn rồi quỳ gối, chấp tay thưa: "Thưa Bề trên, con xin giao tất cả trong tay Bề trên, vì con là đứa con của đức vâng phục".

Người ta không rõ số tiền ấy là bao nhiêu, nhưng chỉ biết đó là 300 ngàn cổ phần trong các công ty đủ loại. Cử chỉ ấy càng làm sáng ngời sự thánh thiện của cha thánh, nêu gương cho ta trong đức vâng lời và khiêm nhường.
-----o0o-----

17- Thanh Bần

1. Người nghèo trong giấc mơ

* Nghèo hèn, nghèo khó, nghèo khổ, nghèo cực. Nếu có tinh thần thanh bần, hãy chấp nhận những hậu quả của nghèo nàn giữa xã hội (ÐHV 413).

* Có như không có, bán như không bán, mua như không mua, như không có gì cả, mà làm chủ tất cả, không đòi hỏi gì cả, sẵn sàng cho tất cả. Ðó là tinh thần thanh bần (ÐHV 421).

Ðầu thế kỷ XIII, Chúa gởi đến cho nhân loại một vì sao rạng sáng đức hy sinh, sống Phúc Âm triệt để, hăng hái loan truyền sự thật và đặc biệt là sống nghèo khó. Vì sao ấy là Phanxicô Assisiô, nước Ý.

Sau những năm bôn ba truyền giáo khắp nơi, lắm kẻ đã đi theo ngài. Nên ngài đã soạn thảo và đệ trình lên Tòa Thánh bản Hiến pháp của một dòng mới mang tên: "Dòng Anh em hèn mọn". Khi nghiên cứu bản Hiến pháp, Tòa Thánh đã quyết định không thừa nhận, bởi cho đó là điều không thể thực hiện được. Vì căn cứ vào truyền thống, các dòng đều có cơ sở, động sản, bất động sản... thì mới bảo đảm được tương lai.

Phanxicô lang thang quanh quẩn ở Roma nhiều ngày cho đến một hôm, ngài được Ðức Thánh Cha Innocentê III cho vào triều yết. Thánh nhân sụp lạy Ðức Thánh Cha và nói: "Xin Ðức Thánh Cha phê chuẩn luật Dòng Anh em hèn mọn của chúng con. Nếu bảo rằng luật ấy không thể giữ nổi, thì sao trong Phúc Âm Chúa lại dạy: Hãy bỏ mọi sự mà theo Thầy. Không thể sống Phúc Âm một cách triệt để được sao?" Ðức Thánh Cha hiền từ chúc lành cho Phanxicô và hứa sẽ tận tình giúp đỡ. Ðêm ấy Chúa cho Ðức Thánh Cha nằm mộng thấy Ðền thờ Latêranô (là đầu và là mẹ của các đền thờ) ngã nghiêng sụp đổ thì kìa, có một người gầy ốm, ăn mặc khó khăn rách rưới chạy đến kề vai nâng dậy. Ðức Thánh Cha nhìn kỹ thì rõ ràng người ấy là Phanxicô! Mấy ngày sau, ngài triệu tập Hội đồng Hồng Y và phê chuẩn bản luật của các Anh em hèn mọn. Ngài giải thích: "Chúa cho Cha hiểu qua giấc mơ ấy là Hội Thánh Chúa đang phải lâm nguy vì xa hoa vật chất, nên phải có những kẻ sống tinh thần nghèo khó Phúc Âm mới chống đỡ tòa nhà Hội Thánh đứng vững được".

2. Các chị em Tiểu Muội

* "Nghèo trong nơi con ở, nghèo trong áo con mặc, nghèo trong đồ con ăn, nghèo trong đồ con dùng, nghèo trong việc con làm" (Cha Chevrier) (ÐHV 408).

* Thế gian không thấy con vâng phục, thế gian không biết con trinh khiết, nhưng thế gian dễ nhận ra con là chứng nhân thanh bần (ÐHV 418).

Họ là ai? Thưa là những đồ đệ trung tín, những đứa con tinh thần của Cha Charles de Foucauld, người đã sống hãm mình cầu nguyện và chầu Thánh Thể giữa sa mạc Sahara mà trước khi chết đã để lại di chúc: "Tôi ước ao được chôn ngay tại chỗ tôi lìa đời, và an nghỉ nơi đây cho đến tận thế. Cấm không ai được dời hài cốt tôi khỏi nơi mà Thiên Chúa nhân lành đã cho tôi hoàn tất cuộc hành hương trên cõi trần thế. Không quan tài, không cần xây hầm mộ, chỉ cần dựng trên nấm mồ đơn sơ một thánh giá gỗ".

Khắp trên thế giới, các chị em Tiểu Muội đều sống tinh thần nghèo khó Phúc Âm như Cha Charles de Foucauld đã thể hiện, dưới những túp lều tranh, trong những xóm bình dân lầy lội, hay trên những con thuyền chật hẹp. Ðâu đâu chị em cũng tìm được hạnh phúc vì có Chúa Giêsu Thánh Thể ở cùng.

Trong Thủ bản của các chị em có ghi thế này: "Chúng ta yêu quý cách riêng những kẻ mọn hèn khốn khổ, vì biết rằng yêu thương giúp đỡ kẻ nhỏ hèn trong hàng ngũ con cái loài người là yêu thương giúp đỡ chính mình Chúa. Chúng ta sẽ đem lòng tôn trọng và bác ái mà nồng hậu tiếp đón họ, chú ý đối đãi hết sức nhã nhặn với họ là những phần chi thể đau yếu của Chúa Giêsu.

"Chúng ta chia sẻ đời sống với kẻ nghèo, cùng ở một nhà như họ, cùng ăn những thức ăn như họ, cùng mặc một thứ quần áo mà chúng ta sẽ vá mạng cho đến khi không thể dùng được nữa. Mỗi khi đi đâu, nếu có thể được chúng ta sẽ đi hạng chót, hạng của người nghèo. Ở bệnh viện xin cấp dưỡng như người nghèo, và khi chết, xin chôn cất như một người nghèo...

"Như Chúa Giêsu đã tự ý trở nên kẻ rốt hèn và làm đầy tớ mọi người, chúng ta cũng không để các kẻ khác hầu hạ, nhưng luôn luôn chọn những công việc thấp hèn và khó nhọc hơn hết.

"Ở trong nhóm chúng ta, ai nấy đều cùng mong muốn ở dưới kẻ khác: yêu thích chỗ rốt cùng, vui lòng nhận lấy mọi điều sỉ nhục, không tìm cách chữa lỗi, mặc dù mình bị trách oan, trừ ra khi danh dự của Chúa hay đức bác ái có thể vì đó mà bị tổn hại...

"Khiêm tốn trong tư tưởng, lời nói, việc làm; khiêm tốn với kẻ nhỏ hèn cũng như với kẻ quyền thế. Khiêm tốn khi thành công cũng như lúc thất bại, khi được khen lao cũng như khi bị lăng mạ. Luôn giữ thái độ hiền lành, dễ dàng dung thứ, và đầy khoan hồng đối với kẻ khác".

3. Kho tàng Hội Thánh

* Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng (ÐHV 414).

* "Hội thánh của người nghèo", không phải để làm cho dân chúng nghèo mãi, nhưng với nỗ lực thăng tiến cuộc đời của dân chúng về mọi phương diện (ÐHV 420).

Thánh Lorensô Phó tế, phụ tá của Ðức Giáo Hoàng Sixtô, là một người suốt đời tận tụy giảng dạy, lo lắng cho giáo dân Roma trong cơn cấm cách và đặc biệt thương yêu những người nghèo khổ. Ngài bị hoàng đế bắt và ra lệnh phải nộp tất cả tài sản của Hội Thánh do ngài quản lý. Ngài xin hẹn mấy hôm. Ðúng ngày, hoàng đế vui mừng đợi ngài đem nộp của cải. Và rồi, Lorensô đã đến, dẫn theo một lũ đoàn người nghèo khổ, bệnh tật, què quặt mà ngài đã giúp đỡ bằng của cải Hội Thánh, hạng người mà hoàng đế bỏ rơi, chẳng thèm đếm xỉa. Ðứng trước mặt hoàng đế, Lorensô nói: "Tâu hoàng đế, đây là tất cả kho tàng của Hội Thánh".

Tức tối, hoàng đế hạ lệnh bắt giam ngài, tra tấn, cực hình đủ cách, và cuối cùng cho lý hình nung đỏ giường sắt rồi đặt ngài lên trên rán cho chết cháy. Hôm ấy là ngày 10.8.258.

4. Linh mục "Ba xu"

* Người ít đòi hỏi là người sướng, vì thấy mình đầy đủ, người nhiều đòi hỏi là người cực, vì cứ thấy mình thiếu thốn mãi (ÐHV 409).

* Sự thanh bần thứ nhất là gì? - Là làm việc! Ðây là niềm an ủi của con khi hiểu ý nghĩa của nhọc mệt lao tác hàng ngày. Hạnh phúc của con được Chúa nói trong Phúc Âm: "Phúc cho tôi tớ đó, chủ đến mà gặp nó đang làm như thế" (ÐHV 423).

Cách đây 40 năm, có một cha Việt Nam sống rất nghèo khó và đạo đức. Ðặc biệt với số tiền tiết kiệm từng xu năm này sang năm khác, ngài đã cùng hai người thợ dần dần xây xong một ngôi nhà khang trang, sáng sủa.

Mỗi ngày ngài ăn hai bữa, mỗi bữa ba xu và tự nấu ăn lấy: một xu gạo, một xu mắm tôm và một xu tráng miệng bằng một mẩu bánh hình ông phật mà dân địa phương vẫn gọi là bánh "Tam ích". Lúc nào có người dâng cúng dư tiền mua vật liệu thì công việc tiến hành mạnh hơn, đến lúc sạch túi thì tạm đình chỉ. Tiền bổng lễ mỗi ngày mấy hào ngài dành để trả công thợ.

Lúc mới khởi công ai cũng nói: "biết bao giờ mới xong được". Ðến ngày khánh thành, mọi người đều hoan hỉ, cảm phục và tặng cho vị linh mục một biệt hiệu đơn sơ nhưng nói lên tất cả lòng thương mến biết ơn: "Cha ba xu". Vì quá lao lực và cam khổ, chỉ vài năm sau, "cha ba xu, qua đời giữa sự thương tiếc của mọi người. Trước lúc nhắm mắt lìa trần, ngài nói: "Tôi sung sướng vì đã hy sinh tất cả để làm việc Chúa, tử lao bất tử lao".

Ngày nay, ngôi thánh đường vẫn còn sừng sững trước mặt mọi người như tấm gương phản chiếu đức thanh bần và hồn tông đồ sáng chói của vị linh mục.

5. Rất nghèo nhưng rất giàu

* Ðừng rộng rãi với của người ta, đừng keo kiệt với của riêng con, đừng phung phí với của công cộng (ÐHV 412).

* Khó nghèo không phải là không có của: đó là khốn khổ, thiếu thốn. Khó nghèo trước tiên là tập trung của cho đúng. Một cốc cà-phê, một cốc bia! Nhưng cũng là một cốc mồ hôi, một cốc nước mắt, một cốc máu đổi lấy nó. Một khói thuốc, nhưng cũng là một hơi thở hổn hển của người lao động vô danh (ÐHV 422).

Ngày nay ai đáp xe đến xứ Ars, vào thăm nhà xứ, trông nhìn chiếc ô (dù) cũ kỹ, cái áo chùng thâm vá trước vá sau, đôi giày xộc xệch và cái nồi được dùng để nấu khoai tây một lần ăn trong nhiều ngày, đều phải công nhận rằng: Cha Gioan Vianney thật là một người sống nghèo khó, thanh bạch.

Lúc tới nhận xứ, cha bỏ một ít đồ đạc trong chiếc xe cải tiến kéo đi; đến nơi tối ấy phải mượn bát dĩa của gia đình Des Gorets mà dùng.

Thế nhưng, đàng khác, ngài là một người rất giàu có, vì dần dần được rất nhiều người dâng cúng của cải. Nhưng có bao nhiêu tiền, ngài đều đem ra mở cô nhi viện, trường miễn phí và sắm sửa Hào Quang, áo lễ rất đẹp. Ngài thường nói: "Cái gì đẹp nhất tôi đều dành cho phụng vụ, việc làm Chúa". Ngài sống khắc khổ với bản thân, nhưng rất quảng đại với mọi người.

6. Cậu bé thanh bần

* Không có của mà tham vẫn chưa phải là thanh bần, có của mà không dính bén vẫn có thể "có lòng khó khăn" thực sự (ÐHV 411).

* Thinh lặng nhường nơi chỗ tiện nghi hơn, công việc lợi lộc hơn cho kẻ khác, đó là dấu thanh bần chân thành (ÐHV 415).

Cậu Gioan Boscô được cha xứ nuôi nấng để chuẩn bị vào Chủng viện. Ngài rất thương yêu tín cẩn cậu, vì thấy rõ ơn thiên triệu nơi cậu bé thông minh đạo đức ấy.

Nhưng rủi thay, cha già Don Cafassô, người đỡ đầu của Gioan Boscô, lại sớm lâm bệnh nặng. Trước khi ly trần, ngài gọi cậu Gioan đến bên giường và bảo: "Cha thương con và quyết lòng đưa con đến tận bàn thánh. Nhưng nay thánh ý Chúa lại khác. Vậy chìa khóa đây, con hãy cầm lấy, cha trối lại tất cả gia tài của cha cho con. Có gì con hãy bán hết mà ăn học cho đạt tới mục đích cha con ta hằng mong ước". Nói đoạn Cha Don Cafassô tắt thở. Các đấng bề trên hay tin đều tựu về lo việc mai táng. Bấy giờ Gioan Boscô thành thực thuật lại cơn bệnh cũng như lời trăn trối của người cha khả kính trước lúc lìa trần. Vừa nói xong, cậu bé rút chìa khóa ở túi áo ra, kính cẩn trao cho bề trên và nói: "Thưa cha Bề trên, con xin trao chìa khóa này cho Cha Bề trên. Con không nhận gì cả; xin bề trên dùng tài sản của cha con mà làm việc lành. Trên Thiên đàng ngài cầu nguyện cho con là đủ...".

7. Ðấy là nhà của tôi

* Của cải chôn vùi con, nếu con đội nó lên đầu; của cải làm bệ chân con nếu con đứng trên nó (ÐHV 407).

* Lúc 15 tuổi, thiếu nữ Clara đến tu viện, Thánh Phanxicô hỏi chị: "Con đến tìm gì ở đây?" - "Con tìm Thiên Chúa", Clara đáp. Câu trả lời gọn ghẽ và rõ rệt. Ðó là tất cả kho tàng của chị. Clara đã nên thánh. Mấy ai biết chọn như chị (ÐHV 424).

Hôm ấy, vào dịp lễ thánh Têrêxa Avila, một nhà Dòng Kín nọ mở cổng cho giáo dân và bà con vào tham quan. Có một người khách hiếu kỳ không hiểu được lý do cuộc sống khắc khổ nhiệm nhặt của các Nữ Tu này, bèn nghĩ bụng: "Chỉ những người không đủ cơm ăn, áo mặc, nghèo khổ xấu số mới liều mình dấu thân vào một nơi kinh khủng này".

Ông gặp một Nữ tu tại hành lang và hỏi: "Này Chị, giả chị có một tòa nhà sang trọng như tòa nhà ở ngoài cổng, đối diện với Nhà Dòng, chị có thể hy sinh chôn mình vào trong bốn bức tường đóng kín này chăng?".

Chị Nữ tu vui vẻ trả lời: "Thưa ông, nhà ấy chính là nhà của tôi!"

Quả vậy, đó là tòa nhà của Chị Thánh Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, người nữ tu mà ông khách hiếu kỳ vừa chất vấn.

8. Bức thư một chủng sinh nghèo

* Nhìn vào con, con thấy thiếu, con cực số một. Nhìn vào anh em con, con thấy bao nhiêu người khốn cực hơn con (ÐHV 410).

"Ðại chủng viện Roma, ngày 16 tháng Giêng năm 1901.

Trọng kính thăm Ba má, Bác Hai, Cậu và anh chị. Khi thư này đến nhà, chắc cả nhà đang sốt sắng dự tuần đại phúc mở tại họ đạo; và con mong rằng tất cả đã sốt sắng lo việc phần hồn, xây dựng hạnh phúc vĩnh cửu.

Con không cầu cho gia đình được giàu sang, chỉ xin cho mọi người trở nên Kitô hữu tốt, sống nghèo khó, bằng an, phó thác trong tay Chúa quan phòng.

Con lấy làm vinh dự sống trong cảnh nghèo của gia đình mình, không bánh mì chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến thịt, có chăng là đôi ba dịp trong năm. Lễ Giáng Sinh thì được thẻo bánh, Má tự làm. Tuy nhiên, gần 20 đứa con đang chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, má vẫn mời họ ngồi vào bàn mà chia bữa ăn với chúng con...

Xin Ba má tha cho những kẻ đã và đang làm hại gia đình mình. Biết đâu trước mặt Chúa, họ tốt hơn mình...

Chúa muốn con làm linh mục không vì giàu sang. Nếu thế thì thật là khốn nạn. Con sẽ làm linh mục để phục vụ kẻ nghèo. Con: Angelô"

Ðó là bức thư thầy A. Roncalli (sau là Giáo Hoàng Gioan XXIII) gởi thăm Ba má.
-----o0o-----

18- Trong Trắng

1. Ðóa hoa trinh khiết

* "Phúc cho ai trong trắng vì sẽ được thấy mặt Thiên Chúa." Không phải chỉ có tu sĩ, mà cả người đời cũng phải trong trắng theo đấng bậc mình. Sống trong trắng không phải bị ràng buộc, nhưng cần được tự do hơn (ÐHV 425).

* Bao nhiêu tâm hồn giáo dân trong trắng gương mẫu giữa trần gian. Tâm hồn tận hiến của con phải cảm phục, phấn khởi và vươn cao hơn nữa. (ÐHV 433).

Thánh Nữ Maria Goretti sinh năm 1890 tại miền Pontins, gần bờ biển, cách thành Roma khoảng 25 cây số. Thuở còn nhi nữ, thánh nhân đã là cô gái nhan sắc mặn mà khiến Alexandre, một thanh niên cùng làm việc trong nông trại với ngài, đã dùng lời đường mật dụ dỗ. Thánh nữ cương quyết chống lại và bảo: "Anh Alexandre, đừng, đừng làm thế, Chúa không muốn anh xuống hỏa ngục đâu". Và lần khác, thánh nữ đã nói cách dịu dàng với anh ta: "Không, anh Alexandre, Chúa không muốn chúng ta làm điều đó!" Nhưng chàng trai ấy quá say mê nhan sắc của ngài; vì thế, lúc Goretti mới 13 tuổi đầu, vào ngày 5.7.1902, lợi dụng lúc cả nhà đi làm xa, Alexandre đã dùng võ lực cưỡng bách Goretti. Ngài chống cự mãnh liệt, nhưng vì sức yếu nên cuối cùng phải khuất phục. Và sau đó, vì sợ bị tố cáo, Alexandre đã đâm chết Thánh Nữ. Sáng hôm sau, ngày 6.7.1902, trước khi trút hơi thở cuối cùng tại bệnh viện Nettunô, Thánh nữ Goretti đã thều thào: "Vì tình yêu Chúa Kitô, tôi sẵn sàng tha thứ cho anh Alexandre, và muốn anh cũng được vào Thiên đàng với tôi".

Năm Thánh 1950, Ðức Piô XII đã phong Thánh cho Maria Goretti trước sự hiện diện của bà mẹ già yêu dấu và bên cạnh bà, có cả... anh Alexandre, lúc ấy đã vào dòng tu!.

2. Ðôi mắt xanh của chị nữ tu

* Có nhiều thiên thần trong trắng mà lại là ma quỷ của ghen ghét. Vô phúc cho cộng đoàn nào gặp loại thiên thần ấy (ÐHV 426).

* Cha đã gặp nhiều người, thuộc nhiều giới, ở nhiều nước khác nhau, sống độc thân hạnh phúc giữa đời. Bí quyết của họ: "Sống cầu nguyện." (ÐHV 435).

* Giá trị của thân xác con: - Mua chuộc bằng Máu Thánh Chúa, - Làm đền thờ Chúa Ba Ngôi, - Sẽ vinh hiển muôn đời. Ðừng đem bán "xôn"! (ÐHV 450).

* Xem thường không giữ ngũ quan là mở cửa cho địch vào thành. David thắng Goliath khổng lồ nhưng không thắng được mắt mình (ÐHV 455).

Trên khắp các nước, thế chiến đã bùng nổ. Quân Phátxít chiếm cứ khắp nơi. Một viên tướng Phátxít đến một nhà dòng kia, yêu cầu kêu Mẹ Bề trên cho ông ta gặp. Khi vừa dốc cạn ly nước từ tay Mẹ Bề trên, viên tướng Phátxít lập tức vào đề:

- Xin bà cho tôi gặp chị Maria. Bà Bề trên bấm chuông gọi chị ấy ra. Ông tướng vui vẻ hẳn lên và nói cách sổ sàng: "Tôi yêu cầu bà trao ngay cho tôi chị này, tôi say mê chị". Hai mẹ con nhìn nhau lúng túng; chị Maria vội đỡ lời: "Tôi là một nữ tu tầm thường, nào có gì để ông say mê. Xin ông tìm ở ngoài thế gian, lắm người nhan sắc lộng lẫy... "

- Không! không! Tôi yêu chị vì chị có con mắt xanh tuyệt đẹp. Tôi say mê quá!

- Không! Xin lỗi ông, không bao giờ tôi chấp nhận điều ấy.

- Nếu chị không chấp nhận, nội ngày mai, tôi sẽ ra lệnh tiêu diệt cả nhà dòng này!

Một bầu khí thinh lặng ghê rợn ập xuống phòng khách. Ông tướng đứng lên và bảo: "Tôi cho một đêm suy nghĩ, sáng mai tôi sẽ trở lại. Phải trả lời dứt khoát: nếu không, tôi sẽ..."

Ngày hôm ấy, cả Nhà Dòng thiết tha cầu nguyện sốt sắng hơn. Thâu đêm chị không thể nào chợp mắt: "Chẳng lẽ vì mình mà cả nhà phải bị tiêu diệt? Không, không thể được! Hay tôi phải bỏ Nhà Dòng, bỏ Tình yêu Chúa Kitô, bỏ đức trinh khiết? Không, không bao giờ như thế!"

Sáng hôm sau, khi chị em còn nguyện kinh, ông tướng Phátxít đã có mặt ở phòng khách, đôi mắt hau háu, nôn nóng, sốt ruột.

Từ đầu hành lang, Chị Maria đang tiến lại, nhưng... bên cạnh lại có một người khác dẫn đi, tay chị cầm một cái dĩa. Viên tướng há hốc mồm, trố mắt kinh ngạc. Chị đã bước vào phòng khách, nhưng ông vẫn không ngớt ngẩn ngơ. Chị Maria khuôn mặt đầy máu me, đang sờ soạng đặt cái dĩa trên mặt bàn và nhỏ nhẹ trình bày: "Thưa ông, vì ông say mê cặp mắt của tôi... nên tôi xin sẵn sàng biếu ông cặp mắt ấy... trên dĩa này. Còn thân xác tôi, đời tôi, tôi đã hiến dâng cho Thiên Chúa".

Viên tướng Phátxít vừa bàng hoàng kinh ngạc vừa cảm phục. Ông xấu hổ đứng dậy bỏ ra về và không đá động gì đến nhà dòng nữa.

3. Tội lỗi xông mùi

* Chúa chỉ ban sự trong trắng cho linh hồn khiêm nhượng. Con hãy cầu xin hàng ngày với tâm hồn đơn sơ chân thành, thực sự nhìn nhận sự yếu đuối của con (ÐHV 427).

* Muốn trong trắng, con phải hy sinh; cành huệ trắng tinh, cành mai thơm tho, cành đào xinh đẹp, vì nó đâm rễ sâu vào lòng đất, vì nó cầm cự với mưa bão, vì nó chịu những bàn tay cắt tỉa (ÐHV 431).

* Nhiều thanh niên cười ngạo nghễ mỉa mai, cho là chuyện hoang đường của thời thượng cổ, nếu ai đề cập đến vấn đề sống trong trắng. Nhưng đến phiên họ, họ chọn người bạn trong trắng, họ đánh ghen, họ tự vẫn khi gặp người bạn đồi trụy (ÐHV 434).

* Bại một trận không phải là thua cả cuộc chiến. Chúa muốn dùng mọi sự để làm nên sự lành, kể cả tội lỗi (ÐHV 457).

Gioan Boscô và Philipphê Nêri là hai vị Thánh sống đời trinh khiết lạ thường. Hai ngài còn có lòng yêu mến giới trẻ cách đặc biệt. Các vị hòa mình với các thanh thiếu niên, vui vẻ nô đùa với họ, ăn uống với họ, cầu nguyện với họ và yêu mến họ.

Với sự hiện diện đầy thương yêu ấy các ngài muốn phải làm sao cho họ không thể phạm tội được. Nhưng tuổi thanh niên nhiều yếu đuối làm sao khỏi vấp ngã. Nên Thiên Chúa đã ban cho các ngài một đặc ân là hễ gặp linh hồn nào còn mắc tội trọng, các ngài liền cảm thấy một mùi thối tha ghê tởm xông lên, khiến các cậu thanh niên không thể giấu giếm với các ngài một tội nào!

Sau kỳ nghỉ hè, thanh thiếu niên lại tựu trường và đang nô đùa vui vẻ giữa sân. Thánh Gioan Boscô đi đến với chúng, tươi cười thăm hỏi... Nhưng hễ đứa nào mắc tội trọng chưa xưng thì phải chạy trốn ngay vì sợ ngài ngửi được mùi hôi thối. Hơn thế nữa, chúng còn phải lấy khăn che mặt lại vì không thể chịu được cặp mắt của thánh nhân. Ngài nhìn ai như thấu suốt cả tâm hồn.

4. Thánh Giêrônimô chống với ma quỉ

* Người kiêu ngạo trước sau cũng sa ngã nặng. Họ cậy vào sức riêng mình, không dựa vào Chúa (ÐHV 428).

* Ma quỷ có thể đuổi được, thế gian có thể tránh xa được. Xác thịt con mang theo mãi đến chết (ÐHV 430).

* Con đừng bảo: "Nước không dập tắt được lửa!" - Chỉ vì nước ít lửa nhiều thôi (ÐHV 438).

* Xác thịt là đặc công nằm sẵn trong con, sách báo, phim ảnh, bè bạn xấu là những khí giới ngày càng tối tân hơn. Nếu con không hiện đại hóa khí giới của con: cầu nguyện, bí tích, hy sinh..., nếu con không tỉnh thức canh phòng, nếu con không dẹp ngay mọi mầm mống nổi loạn, nếu con nuôi dưỡng đặc công, nếu bỏ các đồng minh là các thánh, là bạn tốt, con sẽ bị tấn công vũ bão và thảm bại (ÐHV 439).

* Không trong trắng, việc tông đồ không bảo đảm: "Kho tàng con ở đâu, lòng con ở đó." (ÐHV 442).

* Thần ô uế chỉ sợ ăn chay và cầu nguyện. Con đã làm chưa? (ÐHV 452).

Thánh Giêrônimô sinh năm 340 tại Stridon miền Dalmitie, nước Nam Tư. Ngài là một Ðấng thông minh đạo đức, đã được Ðức Thánh Cha Ðamasô trao cho sứ mệnh dịch toàn bộ Kinh Thánh sang La ngữ. Bản dịch này vẫn còn dùng trong Phụng vụ Giáo Hội: Ðó là bản dịch Phổ thông (Vulgata). Ngài đã sang Thánh Ðịa, vào trong hang Bêlem để ẩn thân cầu nguyện và phiên dịch Kinh Thánh. Thế mà theo lời ngài thuật lại, có những lúc ma quỷ, xác thịt cám dỗ ngài hết sức nặng nề! Chúng làm ngài nhớ lại những quang cảnh xa hoa trụy lạc, những bạn bè xấu nết dâm đảng ngày trước ở thủ đô Roma. Ðể chống lại ma quỉ cám dỗ, ngài đã chay kiêng hãm mình và cầm đá đấm vào ngực. Với ơn Chúa và ý chí mình, ngài đã chiến thắng. Ðức Bonifaciô VII suy tôn ngài lên bậc Tiến sĩ Hội Thánh. Ngài mất năm 420.

5. Thánh không ai ngờ

* Mađalêna đã chỗi dậy và nên thánh, chừng nào con mới quyết định? (ÐHV 437).

* Ăn uống nhậu nhẹt vô độ là mở cửa cho quỷ dâm dục (ÐHV 440).

* Các thánh cũng yếu đuối như con, có vị yếu đuối hơn con nữa, có thế mới có công nghiệp, mới làm thánh. Họ chỉ khác con là họ quyết tâm (ÐHV 448).

* Ðừng bao giờ khinh anh em con, nếu đứng vững đến hôm nay là ơn Chúa, xem chừng kẻo ngày mai con ngã nặng hơn! (ÐHV 454).

Với quyết tâm theo Chúa Giêsu, sống cuộc đời như Chúa Giêsu, cha Charles de Foucauld đã sang bên Thánh địa, vào Dòng Khổ tu Xitô, chịu chức linh mục và làm những việc rất hèn hạ trong nhà, để nên giống Chúa. Tuy thế, ngài vẫn chưa thỏa mãn. Sau đó ít lâu, ngài lại xin phép sang Sa mạc Sahara, cư ngụ trong vùng Touareg, để sống cùng thổ dân Berbères, suốt ngày chầu Thánh Thể, viết sách, làm việc bác ái và rao giảng Tin Mừng cho họ. Cuộc sống của ngài là một cuộc sống khó nghèo, trơ trụi và kết hợp với Chúa Giêsu Thánh Thể cách kỳ diệu.

Nhưng nếu ngược dòng lịch sử cuộc đời của ngài, ta thấy tuổi thanh niên của ngài thực xa hoa. Vào trường võ bị Saint-Cyr, Charles de Foucauld là một sinh viên rất thông minh nhưng vô kỷ luật, mê tán gái và thích ăn nhậu. Có hôm anh rủ bạn bè trốn học cùng nhau đi dạo phố. Ðể cải trang anh mang bộ râu mép giả. Giữa bữa ăn vui vẻ trong tiệm, bỗng bộ râu của Charles rơi xuống! Thật là rủi ro! Ông chủ tiệm sinh nghi bèn gọi báo cảnh sát. Cảnh sát ập tới, kiểm soát giấy tờ thì ố hô..., toàn là những anh sinh viên sĩ quan phạm kỷ luật! Họ chở về trường và cho nghỉ vài hôm trong khám! Tình nhân của Charles thì hàng tá. Vài cô lại có con với anh. Ðến lúc ra trường sĩ quan để nhập đoàn thám hiểm sa mạc Sahara, Charles de Foucauld vẫn tỏ ra vô kỷ luật vì thế việc thăng quan tiến chức của anh thật chậm chạp.

Một hôm được ơn Chúa đánh động mạnh mẽ, anh rời bỏ binh nghiệp và dâng mình cho Chúa. Nghe nói thế, cả gia đình chẳng một ai tin, còn phì cười nữa. Thế nhưng, với sự quyết tâm dũng cảm và ơn Chúa dạt dào, Charles Foucauld đã nên một vị thánh thời danh, được nhiều người thời đại ta tôn sùng, yêu mến.

Cũng như Augustinô, Charles de Foucauld thật là một vị thánh không ai ngờ.

6. Lời cầu nguyện của một linh mục

* Quả tim của con không phải bằng đá. Quả tim của con quý báu vì nó bằng thịt, vì nó biết yêu thương. Hãy can đảm cầm thánh giá cả hai tay và cắm vào đó (ÐHV 445).

* Xác thịt luôn luôn mỏng dòn, dù mặc áo gì, dưới lớp áo vẫn là xác thịt (ÐHV 449).

* Tôi không muốn biết, muốn nhớ quá khứ của anh em tôi. Tôi chỉ muốn biết hiện tại của anh em để thương nhau, để nâng đỡ nhau, và tương lai để tin nhau, để khuyến khích nhau (ÐHV 458).

Cha Michel Quoist là một linh mục thánh thiện đã viết rất nhiều sách báo giúp các linh hồn, trong số đó có cuốn "Prières" mà lắm người quen thuộc. Riêng trong bản Pháp ngữ, tác phẩm ấy đã in tới 350.000 cuốn. Gần đây, nó đã được dịch sang Việt ngữ dưới một nhan đề rất thi vị "Lời kinh thắp sáng cuộc đời".

Bài "Lời cầu nguyện của một linh mục chiều Chúa nhật" trong tác phẩm ấy nói lên tất cả tâm hồn ngài, tâm hồn nhiều anh em linh mục, với sự yếu đuối lẫn sự cao cả của một cuộc đời hiến dâng. Có thể nói đây là lời kinh diễn tả một cuộc đấu tranh, một đời quyết chiến:

"Lạy Chúa, chiều nay một mình con trơ trụi. Những tiếng đồng hồ trong nhà thờ lịm tắt dần. Những người đi chầu đi lễ đã ra hết rồi. Và con cũng lủi thủi trở về nhà xứ, một thân một bóng.

"Con đã gặp những kẻ đi dạo chơi về. Con đã đi ngang qua rạp hát vừa lúc đám đông đổ xô ra. Con đi dọc thềm các quán cà-phê ở đó có nhiều người đi dạo, dáng vẻ đã mệt mỏi, đang ngượng ngạo kéo dài cuộc vui của ngày Chúa nhật. Con đụng phải những đứa trẻ đang đi chơi trên vỉa hè. Những đứa trẻ, lạy Chúa, những đứa trẻ của người khác, chứ không bao giờ là của con.

"Lạy Chúa, này con đây. Một bóng một thân. Yên lặng làm con ngạt thở. Cô đơn làm con bực nhọc. Lạy Chúa, năm nay con được 35 tuổi... với một thân thể như bao người khác, với những bàn tay chắc chắn để làm việc, với một quả tim được dành để yêu đương. Nhưng con đã hiến dâng tất cả cho Chúa, vì thật ra Chúa đang cần những cái đó. Con đã hiến dâng tất cả cho Chúa... Nhưng Chúa ơi, dâng như vậy thật là đau khổ.

"Thật là đau khổ khi con phải dâng thân xác cho Chúa: vì thân xác đó cũng tận hiến cho một người khác. Thật là đau khổ khi con phải yêu mọi người mà không được giữ lại riêng ai. Thật là đau khổ khi con bắt một bàn tay mà không được muốn cầm giữ lại. Thật là đau khổ khi con vừa gây được một tình cảm, đã phải vội dâng ngay cho Chúa. Thật là đau khổ khi con không cho mình chút nào, mà phải hoàn toàn sống cho tha nhân. Thật là đau khổ khi con phải sống như những người khác, giữa những người khác, mà phải là một người khác. Thật là đau khổ khi con phải luôn luôn ban phát mà không được tìm cách nhận lãnh. Thật là đau khổ khi con phải đến với những người khác mà chẳng hề có một kẻ tìm đến với con. Thật là đau khổ khi con phải đớn đau vì tội lỗi của tha nhân, nhưng lại không có quyền từ chối nhận lãnh và gánh chịu chung. Thật là đau khổ khi con biết những kín nhiệm mà không được thố lộ cho ai. Thật là đau khổ khi suốt đời con phải luôn luôn lôi kéo tha nhân mà không để một ai kéo lôi, dù chỉ trong chốc lát. Thật là đau khổ khi con phải luôn ra tay nâng đỡ những người yếu đuối còn chính mình lại không thể nương tựa vào một kẻ mạnh hơn. Thật là đau khổ vì phải cô đơn, cô đơn trước mọi người, trước cái chết, trước tội lỗi.
* * *

"Này con, con không cô đơn. Ta đang ở với con. Ta là con. Vì Ta cần một nhân tình thứ hai để tiếp tục mầu nhiệm Nhập Thể và Cứu Chuộc. Từ muôn thuở Ta đã chọn con. Ta cần đến con.

"Ta cần đến tay con để tiếp tục chúc phúc. Ta cần đến môi con để tiếp tục rao giảng. Ta cần đến thân con để tiếp tục đau khổ. Ta cần đến tim con để tiếp tục yêu thương. Ta cần đến con để tiếp tục cứu độ. Con ơi, hãy ở lại với Ta.
* * *

"Lạy Chúa, này con đây. Này thân xác con đây. Này trái tim con đây. Này linh hồn con đây.

"Xin cho con được cao thượng đủ để vượt lên khỏi thế gian. Xin cho con được mạnh mẽ đủ để nâng đỡ thế gian. Xin cho con trong sạch đủ để ôm ấp thế gian vào lòng mà không hề muốn giữ lại nó. Xin cho con trở nên một nơi gặp gỡ tạm thời thôi. Xin cho con trở nên một con đường không dừng lại ở bản thân, bởi vì nó có thể tiếp nhận một ai, chỉ là để dẫn đưa họ về cùng Chúa.

"Lạy Chúa, chiều nay, khi vạn vật đều im tiếng, và khi trái tim con cảm thấy đau nhói vì cô quạnh. Khi ai nấy đang ngấu nghiến tâm hồn con, mà con lại bất lực không thể làm họ thỏa mãn. Khi bao nhiêu khốn nạn về tội lỗi của thế gian là cả một khối nặng đang đè trên vai con. Thì con nói lại với Chúa tiếng "Xin Vâng", không phải một trong tiếng cười vang, nhưng là chầm chậm, khiêm tốn, sáng suốt, một mình trước mặt Chúa, giữa cảnh chiều tà êm ả".

7. Con là đại thánh

* Một khi đã chỗi dậy, hãy cầm khí giới và quyết liệt tác chiến, ban chiêu hồi của quỷ dâm ô khéo lắm! (ÐHV 456).

Một giáo dân nọ đến xưng tội với Thánh Phanxicô Salêsiô. Anh ta phạm quá nhiều tội trọng nên phải cố gắng hết sức mới xưng đủ mọi tội lỗi. Sau khi lãnh lời tha thứ, ông nói: "Con cám ơn Ðức Cha, bây giờ Ðức Cha nghĩ thế nào về con?"

- Con là một vị đại thánh, vì hồn con trong trắng và được cả Thiên đàng mến yêu.

8. Một phương pháp hay

* Ban thông tin của quỷ dâm ô hấp dẫn lắm, luật sư của xác thịt biện hộ ráo riết lắm. Ðừng đối thoại với nó, hãy biết sau chốc lát hưởng lạc, con sẽ cảm thấy chán ngấy, cắn rứt và cô đơn: Con đổi thiên đàng lấy hỏa ngục sao? (ÐHV 451).

* Càng sống trong trắng, chí khí càng vững, vì đã được rèn luyện qua nhiều trận anh dũng (ÐHV 459).

Lạy Chúa, con muốn sửa mình lắm, nhưng sửa hoài chẳng được. Cơn cám dỗ mạnh quá. Mạnh hơn con nhiều cha ạ!

Thánh Philipphê Nêri nhìn chàng thanh niên thiện chí và dịu dàng khuyên bảo:

- Hãy can đảm lên, cha đề nghi với con hai điều thôi: mỗi ngày con hãy đọc một kinh "Lạy Nữ Vương" và suy niệm đến cái chết; con hãy cố tưởng tượng xác con nằm dưới lòng đất, đôi mắt thối rữa ra, thân mình thì hôi hám, miệng đầy giòi bọ... Rồi con hãy tự nhủ: vì những thú vui xác thịt mà tôi ra như thế và mất nước Thiên đàng!

Chàng thanh niên nghe lời khuyên của vị Thánh, ngày nào cũng cầu nguyện với Mẹ các kẻ đồng trinh và suy niệm về cái chết. Với sức phấn đấu và ơn Chúa, chàng giữ được lòng trong trắng cho đến hơi thở cuối cùng.

9. Vấn đề độc thân của các linh mục

Nhiều lần chúng tôi đã nghe đề cập đến vấn đề sống độc thân của các linh mục. Ðối với giáo dân Việt Nam và đại đa số giáo dân trên thế giới thì đó là điều được mọi người tự nhiên chấp nhận và đòi hỏi: Người tận hiến cho Chúa thì phải dâng tất cả cuộc đời để làm chứng nhân tình yêu vô hạn của Chúa, và để đủ điều kiện phục vụ dân Chúa cách tích cực, hữu hiệu hơn.

Trước tiên cần xác định như sau: Sống độc thân không chỉ có giá trị thuần siêu nhiên, mà cả trong địa hạt nhân bản nữa. Người sống độc thân không trực tiếp nhằm đến việc từ chối hôn nhân, nhưng coi độc thân là điều kiện để quy hướng con tim về một đích điểm khác hẳn một thiếu nữ, tức là Nước Thiên Chúa. Họ tìm thực hiện bản ngã, và điều ấy làm họ vui sướng, thỏa mãn con tim trong Chúa Kitô. Một thái độ rất "người" với một nguyên do siêu việt! Khi nói rằng đời độc thân thánh hiến là dấu chỉ cuộc sống vĩnh cửu, điều ấy không ám chỉ đến một sự trốn thoát cuộc sống hiện tại. Vì cuộc sống vĩnh cửu, chính là Nước Thiên Chúa, là sự hiện diện của hồng ân Thiên Chúa ngay trong đời sống hiện tại, một sự hiện diện thúc đẩy con người mong ước hiến trọn tình yêu.

Ðộc thân và hôn nhân là hai tiếng gọi, hai ngã đường khác nhau để thực hiện lời mời gọi của Chúa Kitô: "Hãy nên hoàn hảo như Cha các con trên trời là Ðấng hoàn hảo". Nhưng sở dĩ truyền thống vẫn cho bậc độc thân thánh hiến là cao trổi hơn bậc sống đôi bạn, là vì truyền thống không xét đến phương diện cá nhân: mỗi người đều hoàn hảo nếu thi hành trọn vẹn thánh ý Chúa Kitô, nhưng xét đến bình diện thực hiện cuộc sống vĩnh cửu, mà cuộc sống vĩnh cửu giá trị hơn cuộc sống trần gian rất mực. Do đó sứ mạng của đời sống độc thân là ôm trọn đời sống vĩnh cửu và đem tỏ lộ cho trần gian.

Ðời sống độc thân có ý nghĩa và sứ mệnh tuyệt vời như thế, nhưng cũng không thiếu những tranh luận, chống đối xảy ra trong lòng Hội Thánh, nhất là trong thời đại hậu Công đồng Vatican II và sau ngày Thông điệp "Sacerdotalis coelibatus" của Ðức Phao lô VI (24.6.1967) ra mắt. Nhiều linh mục đã bỏ ra đi. Nhiều giáo dân lên tiếng đề nghị: "Cứ làm như bên giáo hội Tin lành và giáo hội Chính thống: chấp nhận cho Mục sư và linh mục của họ được tự do sống độc thân hay lập gia đình. Như thế có phải là đơn giản hơn không!"

Thay vì tranh biện với kiểu luận lý sơ sài như trên, ta hãy nghe đôi lời tâm sự của các bậc có uy tín trong vấn đề độc thân nói lên kinh nghiệm của họ.

Mục sư Jungmann nói: "Qúy vị đừng có chỉ nghĩ Giáo Hội Công giáo của quý vị gặp khủng hoảng. Bên Tin lành chúng tôi còn gặp khủng hoảng hơn bên quý vị rất nhiều!"

Trong một cuộc họp mặt giữa các Linh mục Công giáo và các Mục sư Tin lành, một Mục sư đã nói cảm tưởng của mình về đời sống độc thân như sau: "Tôi bắt đầu hiểu giá trị đời sống độc thân trong Giáo Hội Công giáo. Tôi cảm thấy các cha là anh em với nhau và tạo nên một gia đình thực sự. Chúng tôi không thể nói như thế đối với chúng tôi... Nếu một Mục sư nào đó thành công, tôi không sung sướng gì, nếu một Mục sư nào đó đau khổ, tôi không đau khổ với họ... Giữa chúng tôi không có bầu khí gia đình, họa chăng chỉ có giữa vợ chồng chúng tôi thôi!"

Dịp Thượng Hội Ðồng Giám mục năm 1971, trong đó hai vấn đề chính là thừa tác vụ của linh mục và công bình trên thế giới, Ðức Tổng Giám mục Công giáo ở Beyrouth (Liban) đã tâm sự những lời sau đây: "Các Ðức Cha hãy cố giữ lấy kho tàng quý báu của Giáo Hội La tinh, tức là luật độc thân linh mục. Tôi đã có nhiều kinh nghiệm nhiều trong vấn đề này, vì giáo phận tôi, giáo phận theo nghi thức Ðông phương, có những linh mục độc thân và những linh mục lập gia đình. Lắm vấn đề phức tạp mà quý vị không thể tưởng tượng được!"

Các giáo phận Công giáo chúng tôi, cũng như bên Chính thống, luôn luôn ở Tòa Giám mục mấy cha độc thân để dự phòng sau này làm Giám mục kế vị chúng tôi, vì Giáo luật đòi buộc các Giám mục phải độc thân, không có gia đình.

Lại còn phức tạp do luật buộc linh mục chỉ được kết hôn một lần trước khi chịu chức thánh; có những trường hợp linh mục mới 30 tuổi, 35 tuổi mà đã góa vợ, tay bồng tay bế, lũ con nheo nhóc không ai nuôi dưỡng. Thực là nan giải!

Ðối với các giáo phận có một linh mục qua đời để lại một gia đình neo đơn, con thơ vợ dại thì thực là một gánh nặng tài chánh rắc rối. Bên Giáo Hội La tinh, một linh mục chết rồi chẳng phải giải quyết gì cho gia đình cả!

Trong lãnh vực mục vụ càng phức tạp hơn: mặc dù tập quán linh mục đã có từ xưa truyền lại, giáo dân vẫn quí mến linh mục độc thân hơn: các ngài có ở xa hoặc đi đến đâu, họ cũng tìm cách gặp gỡ để xin lễ, xưng tội.

Linh mục có gia đình chỉ phục vụ trọn vẹn trong ngày Chúa nhật, còn những ngày khác thì đi làm ăn để chu cấp cho gia đình. Như thế làm sao tiếp xúc được với đồng đạo giáo dân?

Thuyên chuyển một linh mục có gia đình thật là một vấn đề khó khăn. Ðược lệnh ông sẽ bảo: con sẵn sàng đi nhưng nhà con đang mắc làm việc ở công sở kia, các cháu lại đang theo học ở trường nọ, gia đình con không nhất trí đến địa phương ấy!" - Lắm lúc vị linh mục ấy thì tốt, nhưng bà vợ hoặc con cái chưa nói là xấu, chỉ nói là giáo dân không có thiện cảm, thì cũng đủ để họ ghét luôn ông linh mục, rồi dần xa việc đạo; trường hợp xảy ra sự thù hằn thì họ mất đức tin luôn! Mà nếu thuyên chuyển vị linh mục ấy không được thì cha truyền con nối, tiếp tục giữ nhà xứ thế hệ này sang thế hệ khác, làm sao giáo xứ phải chịu sự áp bức của một gia đình, nên đời sống đạo hạnh sa sút không thể tưởng.

(Còn tiếp)

Tác giả: PX Nguyễn Văn Thuận

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Facebook Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Kênh Youtube Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập80
  • Hôm nay22,361
  • Tháng hiện tại278,011
  • Tổng lượt truy cập79,502,569
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây