19- Gia Ðình
1. Một bà hoàng hậu đạo đức
* Gia đình là tế bào của Hội Thánh. Chân lý này làm thấy rõ sự cao cả và sứ mạng của gia đình:
- Nối tiếp Hội Thánh Chúa Giêsu đã thiết lập ở trần gian.
- Hiện diện của Chúa là chủ gia đình thực sự.
- Thừa tác vụ tư tế trong gia đình là vai trò của người cha.
- Chứng tích sự hiện diện Hội Thánh bằng sự sống gia đình hàng ngày.
- Nỗ lực vươn lên đến Chúa của gia đình, làm Hội Thánh cùng tiến lên.
- Liên lạc giữa Chúa và mỗi chi thể trong gia đình. (ÐHV 494).
* Chủng viện thứ nhất, đệ tử viện thứ nhất, trường sư phạm thứ nhất là gia đình công giáo. Không vị giám đốc nào tài ba, chuyên môn đến đâu có thể thay thế cha mẹ được. Nếu cơ sở bậc nhất ấy bị hỏng, tương lai Hội Thánh và xã hội nhân loại cũng rung rinh sụp đổ. Ðức Gioan XXIII biên thư cho cha mẹ ngày ngài được ngũ tuần: "Thưa Thầy Mẹ, hôm nay con được 50 tuổi, Chúa thương ban cho con nhiều chức trong Hội Thánh, đi nhiều nơi, học nhiều sách, nhưng không trường nào dạy dỗ con, làm ích cho con hơn hồi con được ngồi trên chân Thầy Mẹ" (ÐHV 505).
Sống trong cảnh giàu sang và danh vọng của triều đình Pháp vào tiền bán thế kỷ XIII, làm sao Vua Louis IX lại trở thành một thánh nhân được? Ðó là nhờ gương sáng và sự giáo dục của mẹ ngài. Hoàng Hậu Blanche de Castille. Bà đã âu yếm, kiên cường dạy dỗ con. Vua Thánh Louis không bao giờ có thể quên được lời nói của mẹ hằng nhắc đi nhắc lại bên tai ngài: "Louis con thân yêu của mẹ, con biết mẹ yêu con lắm; nhưng thà mẹ thấy con chết trước mặt mẹ trăm ngàn lần, không thà mẹ thấy con phạm tội trọng mất lòng Chúa một lần".
2. Những giọt nước mắt không vô ích
* Thời đại ta, Hội Thánh đã vạch ra một linh đạo về hôn nhân, cho chúng ta thấy hôn nhân là một phương tiện để con người triển nở và là một ơn gọi đến sự thánh thiện (ÐHV 475).
* Nếu giáo dân đặt nặng nhiệm vụ trần thế của mình, thì nhiệm vụ trần thế quan trọng nhất, quyết định nhất của họ là đời sống gia đình (ÐHV 477).
* Huấn luyện những chi thể hoạt động trong nhiệm thể Chúa Kitô, làm cho con cái mình nên con Chúa. Nhiệm vụ cha mẹ đòi buộc các con phải đi tiên phong về mọi phương diện, mọi nhân đức (ÐHV 492).
Trước sự sa đọa của cậu con trai tại thành Carthage, bà Monica rất đổi buồn phiền. Bà vẫn thường khóc lóc cầu nguyện cho con và năng chạy đến cùng Thánh Giám mục Ambrôsiô để nhờ cậy ngài khuyên bảo. Thánh nhân an ủi bà: "Nước mắt bà sẽ không vô ích đâu! Bà hãy trông cậy, Augustinô con bà sẽ trở lại".
Ðúng như lời Thánh nhân an ủi, sau những năm đắm mình trong tà thuyết và lạc thú, Augustinô cảm thấy chán ngán, cô đơn sầu muộn tột độ. Anh nghiên cứu giáo lý Công giáo, đi nghe thánh Ambrôsiô giảng và chịu phép Rửa tội năm 33 tuổi. Thấy con đã trở về cùng Chúa; bà Monica khấp khởi vui mừng theo con đi về Phi châu, nhưng dọc đường, người mẹ thánh thiện và can trường ấy đã nhắm mắt bình an trong Chúa. Khi thuật lại cái chết của mẹ mình, Thánh Augustinô viết: "Lạy Chúa, chúng con nghĩ: không được làm bổn phận hiếu thảo đối với mẹ chúng con, với lời than khóc rên rỉ vì cái chết của bà đâu phải là một hoạn nạn, và bà cũng chẳng mất đi hoàn toàn: đời sống trong trắng của bà minh chứng điều ấy và chúng con có lý mà tin vững vàng rằng bà đang an nghỉ trong Chúa... Dần dần con lại nhớ đến người tôi tớ của Chúa, mẹ con luôn luôn đạo đức thánh thiện trước mặt Chúa, luôn luôn dịu dàng săn sóc chúng con. Con mất mẹ cách đột ngột, nhưng con cảm thấy an ủi khi con dâng cho Chúa nước mắt con khóc mẹ, con dâng nước mắt ấy cầu cho mẹ con. Nếu ai đoán xét con phạm tội vì khóc thương một bà mẹ chết đi và tạm thời mắt con không còn trông thấy nữa, thì xin họ nhớ rằng chính bà đã khóc than biết bao năm trường để mắt bà được trông thấy con sống lại với Chúa, xin họ đừng nhạo cười con, nhưng xin họ cũng khóc lóc vì tội lỗi con đã phạm trước mắt Chúa. Chúa là Cha của tất cả anh chị em chúng con trong Ðức Kitô".
3. Bà mẹ can trường
* Tình yêu hôn nhân có sức rút từ quả tim con người tất cả can đảm, tin tưởng và quảng đại (ÐHV 467).
* Người ngoài đánh giá hôn nhân công giáo theo mức độ thánh thiện của gia đình công giáo (ÐHV 499).
Ngày 17.9.1798, thời vua Cảnh Thịnh, Tây Sơn, một người anh hùng xứ Huế gục ngã: Thánh Emmanuel Nguyễn Văn Triệu. Pháp trường in vết máu đỏ của ngài.
Trước đó, trên quãng đường từ khám đường đến nơi hành quyết, người ta thấy một bà cụ già đi bên cạnh phạm nhân để an ủi, động viên, khích lệ con can trường chết vì đạo Chúa.
Khi lý hình vừa hoàn tất phận sự: đầu của Emmanuel Triệu vừa rụng xuống, thì giáo dân nhất loạt ùa ra lấy bông và vải thấm máu của ngài. Bà mẹ của ngài tiến thẳng đến trước mặt quan: "Bẩm quan, khi con tôi còn sống thì thuộc quyền của quan, nay con tôi đã chết, xin quan cho tôi được lĩnh xác mang về chôn cất, hay ít nữa được chiếc đầu". Quan truyền binh lính trao ngay chiếc đầu phạm nhân cho bà. Bà mẹ già bình tĩnh lấy vạt áo trước bọc đầu con lại, ôm siết vào ngực, giữa đôi bàn tay xương xẩu và đi bộ trên 10 cây số để trở về nhà.
4. Bà mẹ tận tụy
* Hạnh phúc của một người không căn cứ ở của cải, chức vụ, nhưng ở tình yêu mà người ấy tập yêu suốt đời (ÐHV 462).
* Khi con còn trẻ, con đi nơi con muốn, nhưng khi trưởng thành, người khác sẽ cầm tay con, nhiều người khác, nhiều bàn tay nhỏ sẽ níu lấy và lôi kéo con đến nơi con không muốn, nơi mà không bao giờ con dám đến, nơi mà không bao giờ con tin rằng con có sức đến... nhưng tình yêu có thể bắt buộc con làm tất cả! (ÐHV 465).
Bà Margarita có hai đời chồng: người chồng trước mất sớm để lại hai mụn con trai, người chồng sau cũng vội ra đi giữa một đàn con đông đúc, trong số đó có Gioan Boscô mới trọn hai tuổi.
Mặc dù bà cũng thương yêu và chiều chuộng người anh cả Gioan Boscô, nhưng tính tình nó quá nóng nảy hung hăng, khiến bà rất buồn phiền đau khổ. Cha xứ thấy Gioan Boscô vừa sáng trí lại vừa đạo đức, nên khuyên bà cho cháu lúc rảnh rỗi được lên nhà xứ học hành, đào luyện cho ngày bước vào nhà Chúa. Thằng anh cả ghét em lắm! Nó bắt Gioan Boscô làm việc đêm ngày và đánh đập cậu một cách tàn nhẫn. Nó bảo: "Mày xem tao đâu có chữ nghĩa gì mà làm việc có ai hơn nổi không!" Gioan Boscô đáp: "Ờ! thì cũng như con bò nhà ta thôi, nó đâu học hành gì mà vẫn cày thật khoẻ". Bị thua trí, thằng anh tức giận đấm đá túi bụi cho đến lúc Gioan Boscô ngất xỉu trên đất.
Người quả phụ thấy thế càng thêm đau khổ, lắng lo. Một đêm kia, bà gọi Gioan Boscô lại và nói nhỏ vào tai cậu: "Mẹ thương con lắm, nhưng nếu ở gần anh con, mẹ e rằng có ngày anh con nóng tính sẽ đánh chết con mất! Mấy hôm nay, mẹ thao thức băn khoăn và nghĩ thế này: Thôi, mẹ đành tạm xa con, mẹ gởi con qua nhà cậu cách đây vài chục cây số. Con cố gắng giúp việc cậu cho qua ngày tháng. Mẹ con ta cầu nguyện. Chúa sẽ không bỏ con đâu. Người sẽ cho ước vọng con được thành tựu, con hiểu ý mẹ chưa?"
"... Thưa mẹ, Gioan Boscô nhỏ nhẹ nói: con sẽ nghe lời mẹ. Xa mẹ và các anh em con nhớ lắm, nhưng con cố gắng lao động để vừa ý cậu. Con đem theo ít sách vở để kiếm giờ rỗi đọc thêm. Con cương quyết không bỏ ý định dâng mình cho Chúa, dù phải khó khăn đến đâu chăng nữa, xin mẹ cứ yên trí". Sáng hôm sau, lúc trời còn mờ sương, bà quả phụ trẻ đưa tiễn con lên đường. Nhìn theo cậu bé vai mang túi rết đựng ít thức ăn, vài ba cuốn sách... người mẹ không khỏi bùi ngùi rơi lệ.
Ở nhà cậu, tuy Gioan Boscô khỏi bị đánh đập, nhưng công việc lao động lại quá sức nặng nề. Vì nhà người cậu chuyên làm bánh mì hằng ngày, từ ba giờ sáng, cậu Gioan Boscô đã phải dậy sớm đốt lửa. Dưới ánh lửa chập chờn. Gioan Boscô lấy sách ra học. Càng học cậu càng thông minh tiến bộ.
Cuộc đời cứ trôi qua như thế cho đến một hôm, người anh cả của Gioan Boscô quyết định lập gia đình và ra làm ăn sinh sống riêng rẽ. Cậu được mẹ vui sướng đón về và ngày ngày đến nhà cha xứ học hành, tu luyện. Ðến năm 1835, cậu tròn 20 tuổi và được vào Ðại học Torinô. Trước ngày tựu trường, vì gia đình quá nghèo, mẹ cậu phải đành lòng mang chiếc áo cưới, kỷ vật quý báu nhất của bà, sang nhà hàng xóm năn nỉ họ mua dùm, để kiếm tiền may cho cậu chiếc áo chùng thâm.
Ngày tháng thoi đưa. Thoát chốc đã đến lúc Gioan Boscô được hạnh phúc bước lên bàn thánh. Sau lễ thụ phong linh mục bà mẹ hiền sung sướng cảm động quỳ gối lãnh nhận phép lành đầu tay của đứa con trai quý yêu. Bà ôm hôn con âu yếm và nhắn nhủ con mấy lời vàng ngọc, bằng một cung giọng ngọt ngào như xưa: "Hỡi Gioan, con yêu dấu của mẹ, hôm nay mẹ sung sướng lắm, mẹ mãn nguyện thấy con đã trở thành linh mục. Con hãy thành tâm phụng sự Chúa và tận tụy phục vụ các linh hồn. Xin con đừng lo gì cho mẹ, một chỉ nhớ đến mẹ lúc dâng lễ trên bàn thánh, chừng ấy là đủ cho mẹ".
Linh mục Boscô ghi tạc lời mẹ vào trong tâm khảm, sốt sắng phục vụ mọi người, nhất là trẻ em côi cút đơn nghèo và bọn lâu la, cao bồi, du đảng... Từ tháng 12 năm 1841, ngài bắt đầu quy tụ chúng lại để nuôi nấng, dạy dỗ. Dần dần ngài xây dựng thêm nhà cửa, tổ chức công việc giáo dục cách có hệ thống, kỷ cương. Nhưng phần thì tiền bạc hiếm hoi, phần thì thấy bọn lâu la, cao bồi du đảng ai cũng ngán, thành thử chẳng có ai tìm đến giúp đỡ... Gioan Boscô không biết xoay xở cách nào, bèn về quê năn nỉ mẹ già: "Xin mẹ gắng lên giúp con vì Chúa, vì các linh hồn thanh thiếu niên". Thấy con tiều tụy lại thêm lửa mến Chúa yêu người nung đốt, bà Margarita không quản tuổi già theo con lên đường phục vụ.
Dù lũ trẻ trong trường thật ngỗ ngáo mất dạy, sức khỏe của bà lại càng ngày càng yếu, hậu quả của một xuân thời vất vả long đong, nhưng bà Magarita vẫn hăng say dấn thân phục vụ. Mười mấy năm lần lượt trôi qua, càng lâu công việc càng bề bộn ra, cơ sở càng rộng lớn, cha Gioan Boscô càng vất vả, thì bà Magarita càng thêm mệt nhọc. Nhưng đến một hôm, thấy mình không chịu được nữa, bà bèn gọi cha Boscô lại, rót nhẹ vào lòng đứa con trai: "Gioan con yêu quý của mẹ, vì thương con, mẹ đã âm thầm phục vụ suốt bao năm qua; nhưng cái lũ lâu la ấy ngày càng thêm quá quắt. Mẹ không còn sức chịu đựng được nữa. Con nghĩ xem, mẹ trồng được luống rau nào là chúng đá bóng làm tan nát hết; mẹ mới nuôi được bầy gà chúng cũng chẳng tha, rượt đuổi theo làm chúng tán loạn... Con biết, mắt mẹ đã mờ, mẹ rán khâu quần áo cho chúng, nhưng vừa khâu xong, chúng hùa nhau vật lộn đấm đá khiến quần áo chúng chẳng còn tấm nào nguyên vẹn; chăn mền con đã chạy ngược chạy xuôi kiếm về cho chúng, chúng nô đùa dơ bẩn chẳng thèm rửa ráy, cứ phóng đại lên giường trùm kín mít làm dơ bẩn hết trơn; thậm chí còn có đứa ban đêm trốn đi, mang theo cả chăn màn áo xống!"
Cha Gioan Boscô thương yêu mẹ lắm, nghe những lời trên như đứt ruột náy gan; ngài than thở với mẹ: "Mẹ ơi! con biết mẹ rất thương con, con không muốn làm cho mẹ phải khổ, nhưng vắng bóng mẹ thì còn ai giúp con phục vụ hữu hiệu được nữa?" Rồi ngài thinh lặng, ngước nhìn lên Thánh giá. Bà mẹ cũng nhìn lên. Nước mắt cả hai chảy ròng ròng, tình thương dạt dào khôn tả. Bỗng dưng bà Margarita buột miệng: "Gioan con, thôi mẹ hiểu rồi, mẹ sẽ ở lại với con. Ở lại cho đến chết".
Bọn lâu la tuy nghịch ngợm, ngỗ ngáo nhưng càng khôn lớn, chúng càng yêu mến quý chuộng bà. Cả nhà đều gọi bà cái tên âu yếm thân mật: "Mamma Margarita: Má Margarita". Sau hơn 20 năm phục vụ bên cạnh con, mùa đông năm 1865, bà Margarita thanh thản ra đi, để lại niềm thương tiếc xót xa cho đại gia đình. Ai cũng xem bà như một vị Thánh.
5. Song thân của Thánh nữ Têrêxa Hài Ðồng Giêsu
* Các con ngạc nhiên khi nghe nói đến "ơn gọi làm cha mẹ gia đình"? - Người ta lầm lạc khi dành ơn thiên triệu, bậc trọn lành cho tu sĩ thôi (ÐHV 476).
* Sự hiệp nhất giữa đôi bạn phải rất trọn vẹn: hiệp nhất thể xác, tình yêu, tinh thần và thiêng liêng, nhờ sự hiện diện của Chúa Kitô. Yêu trong Chúa, đẹp lắm! Yêu thương vì Chúa, càng đẹp hơn! Gia đình lắng nghe tiếng Chúa và cùng tiến lên trong sự thân mật Chúa (ÐHV 489).
* Gia đình là một "trung tâm ánh sáng", đem ngọn lửa hồng đốt sáng nóng kẻ khác. Ngày nào mỗi gia đình là một "trung tâm ánh sáng", thế giới này sẽ là một đại gia đình đầy ánh sáng, đầy hy vọng. (ÐHV 502).
Têrêxa mồ côi mẹ lúc chưa đầy 4 tuổi, các chị lại lần lượt noi gương nhau bước vào Dòng Kín, vì thế cô rất được cha yêu quý chiều chuộng.
Khi vừa 14 tuổi rưỡi. Têrêxa ước ao dâng mình cho Chúa theo chân các chị lắm, nhưng chẳng biết làm sao để tâm sự cho cha già hiểu. Cô sợ rằng cái tin sét đánh ấy, sẽ khiến cha đau buồn, giảm thọ, vì ông thương cô "công chúa" của ông lắm; hơn nữa, hai chị sau hết của cô lại mới vào Dòng Kín cách đó chẳng bao lâu.
Một buổi chiều kia, thấy cha ra vườn ngồi chơi, hai tay khoanh lại ngắm thiên nhiên xinh đẹp, Têrêxa đánh bạo đến ngồi gần bên cha, nhưng miệng chưa thốt nên lời mà nước mắt đã ràn rụa. Ông Martin cúi xuống nhìn con tỏ lòng yêu thương tha thiết. Ðoán biết có điều uẩn khúc muốn nói, ông ẵm đầu con vào ngực và hỏi:
- Có việc gì vậy? nói cho cha nghe nào....
Bấy giờ Têrêxa mới gạt nước mắt tỏ cho cha biết việc mình quá sức ao ước vào Nhà Kín. Ông Martin nghe cũng phải bật khóc. Thế nhưng, ông chẳng nói một lời gì ngăn cản ơn kêu gọi của con; ông chỉ bảo cách nhỏ nhẹ:
- Con còn trẻ, làm sao quyết định việc đó được!
Têrêxa vẫn tiếp tục năn nỉ, nêu đủ mọi lý do. Cuối cùng ông Martin cũng phải đành lòng chấp thuận theo thánh ý Chúa.
Ngày nay, du khách nào đến viếng tư đường của Têrêxa Hài Ðồng Giêsu, xin đừng quên tản bộ ra phía sau vườn, đến ngay chỗ xảy ra câu chuyện trên đây và chiêm ngắm pho tượng trắng bằng đá cẩm thạch do một nhà điêu khắc trứ danh thực hiện. Pho tượng nói lên tất cả tình phụ tử trong giây phút quan trọng của cuộc đời Chị Thánh Têrêxa. Càng nhìn, du khách càng cảm động say mê...
Thế nhưng, dù ý cha đã chấp thuận, Têrêxa vẫn chưa bước vào Dòng Kín được, vì còn quá nhỏ, mới 15 tuổi đầu! Ông cứ bèn đưa cô "công chúa nhỏ" của mình theo đoàn hành hương sang thành Roma yết kiến Ðức Thánh Cha Lêô XIII. Têrêxa đã bạo dạn xin phép Ðức Thánh Cha chuẩn cho mình được vào dòng Kín lúc 15 tuổi. Thấy cô bé nài xin cách đơn sơ chân thành khẩn khoản. Ðức Lêô XIII rất cảm động, nhưng vẫn bảo cứ theo sự quyết định của Ðấng bản quyền trong địa phận và sau cùng các đấng đã chấp thuận.
Thế là Têrêxa được vào Dòng Kín! Công lao và sự hy sinh của ông Martin to lớn biết chừng nào! Về sau, khi viết chuyện "Một tâm hồn", Têrêxa luôn nhắc đến công ơn của cha, không những trong việc nuôi nấng về mặt vật chất, mà cả về mặt thiêng liêng nữa! "Lần kia đang nghe giảng về mẹ Thánh Têrêxa Avila, cha liền cúi xuống khẽ bảo con: con cầm trí nghe, đang nói về thánh quan thầy của con đấy! Con vẫn cầm trí, nhưng xin nói thực rằng con hay nhìn cha hơn nhìn đến diễn giả. Diện mạo cha tốt đẹp, nói cùng con nhiều sự, thỉnh thoảng hai mắt cha ứa lệ, cha cố giữ mà không giữ nổi phải để tràn ra. Khi nghe giảng về chân lý đời đời, cha hình như không còn phải là người dương thế nữa, linh hồn cha như đã bay xa về thế giới khác..."
Ðã có một cha thánh thiện như thế, Têrêxa cũng được một bà mẹ đạo đức. Thánh nữ đã viết về cha mẹ như sau: "Thiên Chúa đã ban cho tôi một người mẹ và một người cha xứng đáng sống ở trên trời hơn là ở dưới thế". Cả hai ông bà đã giáo dục con theo tinh thần Kitô giáo, nhưng vẫn không bao giờ tưởng tượng mình sẽ có một cô bé út sau này sẽ làm thánh cả. Thế nhưng, chính cuộc sống của họ đã chuẩn bị con đường cho Thánh nữ bước đi, như lời Chúa Giêsu nói trong Phúc Âm: "Cây tốt ắt sinh trái tốt".
Người ta còn nhớ tháng 9 năm 1843, một thanh niên tên Louis Martin đi bộ từ xứ Normandie miền Tây nước Pháp, đến tận Thụy Sĩ, leo lên núi Alpes để xin vào tu Dòng thánh Bernard, nhưng cha Bề trên bảo cậu: "Con chưa biết La ngữ, hãy về học rồi đến đây cha sẽ nhận". Rồi cũng khoảng thời gian ấy, một thiếu nữ tên Maria Guérin cùng đi với mẹ đến xin dâng mình vào Dòng Nữ Tu thánh Vinh Sơn Phaolô, nhưng bà bề trên trả lời cách dứt khoát dưới sự soi sáng của Chúa: "Chúa không muốn, con hãy về ở thế gian".
Ngài biết thiện chí của cậu Louis Martin và cô Maria Guérin, nhưng thánh ý nhiệm mầu của Ngài đã định liệu cách khác. Ngày 13.8.1858, họ đã làm lễ thành hôn tại nhà thờ Ðức Bà thành Alencon.
Hai ông bà sinh được 9 người con, 4 đứa đầu Chúa cất về lúc còn nhỏ tuổi, 5 đứa sau lần lượt dâng mình cho Chúa trong dòng Kín và dòng Thăm Viếng. Têrêxa là con gái út. Hai ông bà rất ước ao hiến dâng cho Chúa một đứa con trai để đi truyền giáo, nhưng Chúa lại gọi hai cậu con trai nhỏ Louis và Jean Baptiste về Thiên đàng lúc chưa được một tuổi. Ðể bù lại, Chúa đã cho Têrêxa, con gái út, được Ðức Piô XI phong làm bổn mạng các xứ truyền giáo, đồng hàng với thánh Phanxicô Xaviê.
6. Bà mẹ thánh thiện và đảm đang thành Luân Ðôn
* Chúa Kitô đã muốn xây dựng nhiệm thể Ngài bằng những tế bào gia đình; Hội Thánh có thể thay đổi đường lối tông đồ, thay đổi các hội đoàn, nhưng Hội Thánh luôn luôn phát triển nhờ các gia đình. Ðức tin được thông truyền qua các tế bào sống động và lành mạnh ấy (ÐHV 495).
* Giáo dục con cái là "Trường vươn lên" cho cha mẹ. Trẻ con có "cái nhìn chỉ trích", chúng là những "quan sát viên khắt khe". Chúng bắt buộc các con xử trí đúng vai trò của các con và do đó giúp các con tiến lên (ÐHV 496).
Ðầu thế kỷ XX này, tại Luân Ðôn, có một gia đình công nhân vừa nghèo khó lại vừa đông con: cả thảy 13 đứa! Bố của chúng phải đi làm việc suốt ngày ở xí nghiệp, bà mẹ ở nhà làm nghề phụ và lo việc nội trợ. Dù đầu tắt mặt tối, bận bịu suốt ngày suốt đêm, nhưng bà Vaughan vẫn vui vẻ thay mặt chồng dạy dỗ con cái học giáo lý tập luyện chúng có tinh thần đạo đức, khuyên chúng chịu khó học tập, lao động và đặc biệt là trưa nào, rửa chén bát xong, bà Vaughan cũng đến nhà thờ chầu Chúa một giờ. Láng giềng ai cũng lấy làm lạ và hỏi bà: "Một bầy con 13 đứa, bận rộn sáng tối, mà sao trưa nào chị cũng đi chầu Thánh Thể?" Bà tươi cười bảo: "Thấy một bầy con lúc nhúc, ăn bữa mai chạy gạo bữa hôm, tôi lo lắm. Hơn thế, chúng còn đến trước trường học, theo bạn bè rủ rê đi chơi hoặc ra phố phường xa hoa, do đó nhiều nguy hiểm, tôi càng thao thức hơn. Thành thử mỗi ngày dầu bận việc đến đâu, tôi cũng bỏ ra một giờ để chầu Chúa, sốt sắng xin Người ban ơn cho vợ chồng tôi nuôi nấng các cháu hằng ngày dùng đủ và dạy dỗ chúng nên người đạo đức".
Chúa đã nhận lời và ân thưởng cho lòng tin cùng sự hy sinh của bà Vaugran: trong 13 người con, một người làm Hồng Y Tổng Giám mục giáo phận Luân Ðôn, một người khác làm Tổng Giám mục, hai người làm linh mục hai nam tu sĩ, hai nữ tu sĩ; còn 5 người ở thế gian lập gia đình lưu truyền nòi giống, sống cuộc đời đạo đức thánh thiện.
7. Hai chiếc nhẫn
* Thực đáng buồn khi thế giới văn minh ngày nay chỉ hiểu giáo lý công giáo về hôn nhân qua "những luật cấm!"; thế giới đâu ngờ Chúa Giêsu đã đến cứu chuộc tình yêu nhân loại, đã ban một sự thăng tiến con người lạ lùng là bí tích hôn nhân! Con phải học và trình bày khía cạnh tích cực, tốt đẹp của hôn nhân công giáo (ÐHV 480).
* Gia đình là tế bào của Hội Thánh, nói cách khác, là một "Hội Thánh cỡ nhỏ" (Ecclesiuncula) ở đó Chúa Giêsu hiện diện, sinh sống, chết, phục sinh cách mầu nhiệm trong các chi thể (ÐHV 493)
* Con hãy tin rằng: đời sống gia đình công giáo là một "lối tu đức" riêng biệt (ÐHV 497).
Hôm Ðức Cha Sartô (sau này là Thánh Giáo Hoàng Piô X) vừa được thụ phong Giám mục, ngài liền về thăm mẹ. Ngài để tay trên bàn trước mặt mẹ già nghèo khó và thưa: "Mẹ xem đây này, chiếc nhẫn mới Giám mục của con".
Bà cố đưa bàn tay nhăn nheo của mình đặt trên tay con và bảo: "Nếu không có chiếc nhẫn cưới nghèo nàn của mẹ đây thì làm sao có chiếc nhẫn giám mục của con ngày hôm nay được!"
8. Tông Ðồ liên gia
* Ý thức được sứ mạng, nhiều gia đình công giáo sẽ đặt dưới quyền sử dụng của Hội Thánh những mãnh lực nhân loại và siêu nhiên của tình yêu vợ chồng, của bí tích hôn nhân, với một sự hăng say lạ thường (ÐHV 482).
* Những giây phút thinh lặng bên nhau, chìm đắm trong cầu nguyện, Những giây phút tự phát cầu nguyện cho nhau, cho con cái, Những giây phút trao đổi thân mật về đời sống thiêng liêng, về việc tông đồ, Là một mạc khải, một niềm vui sâu xa và thắm thiết. Các con hãy kinh nghiệm: Chúa ở giữa các con! (ÐHV 490).
* Giờ "ngồi bên nhau", "cùng nhau ngồi bên Chúa" là giờ của chân lý, là một khám phá kỳ diệu, là một liều thuốc thần tiên. Bầu khí gia đình sẽ thay đổi, nhiều vấn đề gay cấn được thông cảm giải quyết. Trước kia hai vợ chồng "chung sống hòa bình" cách nông cạn, rời rạc. Giờ đây tất cả là một tình yêu, một niềm vui, một lo âu, một lời cầu nguyện. (ÐHV 504).
Cách đây 20 năm, cha được gia đình Cậu-ly ở Chicago (Hoa Kỳ) mời dùng cơm tối. Suốt buổi chiều hôm ấy, cha nghe hai vợ chồng họ nói say sưa về "Phong trào gia đình công giáo", mà họ đang là hội viên hoạt động. Họ bảo:
"Các Hội gia đình không mang lại kết quả tốt đẹp, vì gia đình muốn làm gì, cả vợ cả chồng phải cùng nhau nhất trí. Nếu một mình vợ giáo dục con cái, còn chồng thì lè phè làm gương xấu thì uổng công. Do đó, chúng tôi đã thành lập "Phong trào gia đình công giáo" có cả vợ chồng cùng tham gia. Cứ bảy, tám gia đình trong khu phố làm thành một nhóm, hằng tuần luân phiên gặp nhau ở một gia đình. Trước hết chúng tôi suy niệm Tin Mừng, rút kinh nghiệm sống trong tuần qua của từng gia đình, từng khu phố. Vấn đề ảnh hưởng trong khu phố rất quan trọng: một cháu hư hỏng có thể lôi kéo cháu khác. Sách báo các cháu đọc, phim ảnh các cháu xem, chúng tôi đều quan tâm kiểm điểm. Thỉnh thoảng có cha xứ đến gặp mặt chia sẻ với nhóm này hay với nhóm khác. Chúng tôi đồng ý với nhau: Lúc họp mặt tất cả mọi người đều hiện diện, đừng thiếu một ai, và chỉ sau khi gặp mặt xong mới uống nước trà bánh ngọt, để không phân biệt gia đình giàu với gia đình nghèo, và để nhà nào tiếp đón khỏi bận rộn đi xuống bếp lúc gặp mặt. Vợ chồng chúng tôi vừa đi vòng quanh thế giới, thăm các nước có phong trào này. Nhờ ơn Chúa, chúng tôi thấy bầu khí của gia đình đầy tình yêu Chúa, biết giúp nhau biến đổi, biết chấp nhận nhau hơn, sống quảng đại hơn, can đảm hơn, biết nhìn thấy gia đình là một sứ mệnh, một ơn gọi: Vợ chồng giúp nhau, cha mẹ giúp các con, các gia đình cùng khu phố giúp nhau nên thánh.
"Ngoài những buổi họp hằng tuần, mỗi tối, sau lúc cầu nguyện và cho các con đi ngủ, chúng tôi có "giờ ngồi bên nhau" vợ chồng cùng chung một lo âu, một niềm vui, một mối hy vọng, một tình yêu bên Chúa.
"Chúng tôi còn mở rộng nhà đón tiếp không những họ hàng, bạn hữu, mà tất cả mọi người, nhất là người ngoại quốc, các du học sinh, chúng tôi kiếm những gia đình có khả năng tình nguyện tiếp đón một cô, một cậu học sinh ở Ðại học này hay Ðại học khác để cho sinh sống trong gia đình như một người con, hay đón về hưởng bầu khí ấm cúng trong các dịp lễ, ngày nghỉ. Càng ngày chúng tôi tiếp đón được càng đông và càng có ảnh hưởng tốt, không những với cá nhân họ, bè bạn họ, mà cả gia đình họ ở Châu Á, Châu Phi nữa. Lúc họ rời nước chúng tôi, chúng tôi vẫn còn liên lạc mật thiết như người con trong gia đình, và chúng tôi lại đón tiếp một du học sinh khác, lắm lúc là do anh chị em bạn trước giới thiệu đến với chúng tôi. Mấy chục năm nay, chúng tôi say mê công việc tông đồ này".
9. "Những bà mẹ không đám cưới"
* Có một sự sáng suốt đáng buồn: xét mọi người theo quá khứ của họ. Có một sự sáng suốt đầy yêu thương: đoán trước người ta có thể biến đổi tốt đẹp chừng nào! (ÐHV 472).
* Tình yêu không mù quáng: Thấy yếu đuối của người yêu và cố gắng gánh vác. Thấy khả năng của người yêu và tế nhị khơi dậy (ÐHV 473).
* Gia đình công giáo làm tông đồ bằng cách "tiếp đón". "Mở rộng nhà" các con và đồng thời "mở rộng lòng" các con. Nhà nào lại không có khách? "Tiếp đón" là cách thế tiện nhất, tự nhiên nhất, để làm chứng tích về tình yêu, về sự hiệp nhất, về niềm vui, về cởi mở... "Nghệ thuật tiếp đón" sẽ trở nên "tông đồ tiếp đón". Các con hãy sống và làm cho những ai đến gia đình các con đều "thèm sống như các con" (ÐHV 503).
Trong xã hội ngày nay, vì cám dỗ xa hoa đồi trụy, vì thiếu kinh nghiệm cuộc sống, nhiều thiếu nữ bị lợi dụng phải sa ngã, đánh hỏng cả cuộc đời. Có những gia đình hạnh phúc đã nghĩ tới họ và lập ra "Phong trào giúp những người mẹ không đám cưới". Tổ chức này hoạt động chính thức ở Canada và Mỹ.
Thông thường, thiếu nữ nào gặp phút sa lỡ cũng đều mang một tâm tư buồn chán đau khổ: đi đến hôn nhân bất đắc dĩ thì không vừa ý và có lẽ sẽ chẳng hạnh phúc, về gia đình lắm lúc bị bố mẹ đánh đuổi, ở lại địa phương thì hàng xóm phỉ báng xấu hổ suốt đời. Nên chỉ còn cách là đi nạo thai hoặc tự tử! Tổ chức nói trên nhằm mục đích giúp đỡ họ trong những hoàn cảnh như vậy.
Ðến văn phòng của tổ chức, các cô gặp những ông bà rất thông cảm, biết lắng nghe tâm tư đau thương và xấu hổ của họ, yêu mến họ và thu xếp mọi sự cho họ. Sau khi nắm rõ sự việc, chính những nhân viên văn phòng ấy an ủi thông cảm với gia đình các cô và liên lạc với những gia đình đạo đức trong tổ chức ở các thành phố khác để đón các cô tới. Các cô có thể chọn lựa mua vé xe hoặc máy bay hay tàu lửa tùy ý. Ðến nơi các cô thấy ngay hai ông bà lạ mặt đón tiếp mình cách niềm nở như cha mẹ ruột. Họ đưa các cô về nhà lo lắng săn sóc cho đến ngày sinh nở. Chính họ làm cho tinh thần các cô biến đổi thấy đời còn đáng yêu, còn đáng hy vọng để sống thảnh thơi, an bình. Họ giúp các cô xây dựng lại cuộc đời nơi này hay nơi khác; hoặc đưa các cô trở về gia đình cũ, tiếp tục nâng đỡ các cô mà không bao giờ nhắc đến quá khứ, chỉ tin tưởng và làm việc cho tương lai.
Không ai biết được số gia đình làm việc như thế là bao nhiêu, nhưng chắc là đông lắm, và phải có một lòng bác ái, hy sinh cao độ mới thực hiện được.
10. Hai vợ chồng câm
* Ðòi hỏi biến đổi mà không yêu thương làm cho bạn mình bất mãn. Yêu thương mà không đòi hỏi biến đổi là cho bạn phương tiện. (ÐHV 468).
* Yêu thương để giúp bạn biến đổi là cho bạn phương tiện. Bắt bạn biến đổi mới yêu thương là cất hết phương tiện (ÐHV 469).
* Ý thức rằng các con đồng trách nhiệm về sự trưởng thành trong tình yêu Chúa. Ý thức rằng ơn gọi của các con là cùng nhau và nhờ nhau nên thánh: Ý thức rằng ơn bí tích thường xuyên giúp đỡ các con. Các con được thúc đẩy hăng say sống mầu nhiệm Chết và Phục Sinh qua mọi khía cạnh của đời sống các con. (ÐHV 486).
Anh câm, chị cũng câm, thế mà vẫn tìm hiểu nhau và đi đến hôn nhân như mọi người khác! Không những thế, gia đình còn làm ăn khấm khá và dần dần sinh được 6 người con. Xóm giềng thấy thế ai cũng mừng cho gia đình câm và rỉ tai nhau: "Câm cũng khổ mà cũng hay, khỏi có lời qua tiếng lại, cũng chẳng phải nghe tiếng nặng tiếng nhẹ, bớt được nhiều vụ va chạm xích mích".
Ai ngờ đâu, con người có thật lắm cách để bày tỏ tình cảm của mình! Vợ chồng câm mà vẫn cơm không lành, canh không ngọt. Cả hai cùng đưa nhau ra tòa ly dị. Thiên hạ hiếu kỳ lại được dịp đi xem. Tòa chấp thuận cho họ ly dị nhau và quyết định mỗi bên phải nuôi 3 đứa, cứ mỗi tháng hai bên gặp nhau một lần để cho con cái thăm bố mẹ và anh chị em thăm nhau.
Thế nhưng vẫn không xuôi, lại cùng nhau ra tòa lần nữa, vì mấy lần gặp nhau cả hai vợ chồng vẫn có chuyện xích mích trong lúc con cái thì ríu rít vui vẻ. Tòa xử: "Từ đây ba tháng mới gặp nhau một lần".
Ðược một thời gian, gia đình câm ấy lại... dắt nhau ra tòa! Vì vợ chồng vẫn tiếp tục sinh sự. Tòa án phải đi đến một giải pháp sau hết: "Từ đây, con đi thăm mẹ và anh chị em thì bố đừng đi theo, mà con đi thăm bố và anh chị em thì mẹ phải ở nhà. Chừng ấy mới yên được!"
11. Mối tình sắt son
* Ðôi bạn đối với nhau, cũng như đối với con cái, sống tất cả tình yêu của Chúa Giêsu đối với mọi người. Ðôi bạn do đó tham dự và sống lại mầu nhiệm cứu chuộc. Ðôi bạn tập yêu thương cách phong phú, vô bờ bến, như Chúa Giêsu yêu họ và yêu mọi người (ÐHY 466).
* Tình yêu luôn luôn thao thức; không phải vì hoài nghi tình yêu của bạn mình, nhưng vì thấy mình có trách nhiệm tạo cho nhau những gì là mới mẻ, là cảm hứng, là biến đổi, có khi chính bạn cũng không hay biết. Chính nỗi thao thức ấy là một niềm vui (ÐHV 471).
Cuộc sống gia đình của một vị tướng lãnh nọ ở Philippine đang đầm ấm trôi qua trong bầu khí thánh thiện đạo đức, thì bỗng một hôm, bác sĩ chẩn mạch cho biết: bà mắc bệnh phung cùi, phải đưa vào trại cùi xa cách mọi người càng sớm càng tốt.
Thực là một tin sét đánh! Từ đây vợ chồng phải xa nhau sao? Quả thế, không mấy ngày sau, ông tướng buồn khổ đưa vợ vào trại bài phong; nhưng vì quá yêu vợ, ông nghĩ ra được một diệu kế: Tất cả nhà cửa, tiện nghi sang trọng ông đều giao cả cho con cái ở. Còn ông, ông thuê một căn nhà nhỏ ngay trước mặt trại cùi và đến sống ở đó. Ngày ngày, ban sáng, trước khi đi làm, ông ghé vào thăm vợ; chiều tối xong công việc, ông cũng ghé vào an ủi. Cả hai chia sẻ tâm tình lo âu, nhọc mệt cũng như vui sướng trong ngày cho nhau, báo tin về con cái, bạn bè, rồi cùng nhau đọc kinh cầu nguyện.
Lúc đầu không một ai biết rõ, nhưng dần dần người ta mới để ý, tìm hiểu và tỏ lòng cảm phục bàn tán với nhau: "Làm sao họ trung thành với nhau như thế! Làm sao ông tướng tài ba ấy lại quí vợ đến thế!"
Mười mấy năm trôi qua, bệnh bà đến lúc khỏi hẳn. Vị tướng sung sướng lái xe đưa vợ về nhà sum họp với con cái, bạn bè, để lại cho dân chúng xa gần một hình ảnh cao đẹp về mối tình hiệp nhất yêu thương trong Chúa.
12. Bà mẹ can đảm của 7 anh em nhà Macabê
* Canh tân gia đình để canh tân Hội Thánh (ÐHV 478).
* Sinh con cái không phải đáp lại nhu cầu nối tiếp giống nòi, nhưng là ước muốn tăng trưởng nhiệm thể; giáo dục con cái là huấn luyện những kẻ thờ phượng Ðức Chúa Cha cách trung thực. Khám phá và khâm phục ý định cao cả của Chúa về gia đình các con (ÐHV 491).
Dưới ách thống trị của các vua dòng dõi Sêlaukus Hy Lạp (198-143), dân Do Thái đã trải qua một cơn bách hại thật là khủng khiếp. Quan quân ngày đêm truy lùng những kẻ cắt bì cho con cái, hội họp ngày thứ Bảy; hoặc bắt ép một số người phải ăn thịt heo, trái với lề luật dạy. Ngày nọ, có một gia đình gồm: một mẹ với 7 người con đều bị bắt và bị cung bách phải ăn thịt heo. Lý hình tra tấn bằng đòn trượng và gân bò, nhưng họ vẫn một dạ trung thành không lay chuyển. Vua Antiôcho quá xung giận. Ông ra lệnh cắt lưỡi và lột da đầu người con cả rồi vất lên chảo; lần lượt người con thứ hai, thứ ba... cho đến người con thứ sáu đều chịu những cực hình như thế. Nhưng tất cả 6 anh em vẫn một mực trung thành với lề luật thánh cho đến hơi thở cuối cùng. Hôm ấy, những kẻ hiếu kỳ đến xem đều nghe được rõ ràng những lời tuyên bố vàng của họ: "Chúng tôi sẵn sàng chết chứ không trái phạm các Lề luật cổ truyền!", "Ðồ khốn kiếp, người cất mạng sống đời này của chúng ta, nhưng Vua vũ trụ sẽ cho chúng ta sống lại!", "Ông đừng có ảo tưởng... "
Còn người mẹ, bà thật là người thật đáng cảm phục, đáng được kính cẩn ghi nhớ. Một lòng cậy trông vào Chúa, bà đã can đảm chứng kiến 7 con cùng chết trong một ngày. Lòng đầy chí khí anh hùng, khí phách nam nhi, bà nói với các con bằng tiếng nói của Tổ tiên: "Mẹ không được biết làm sao chúng con đã xuất hiện trong dạ mẹ, vì không phải mẹ đã tặng chúng con sinh khí và sự sống, cũng không phải mẹ đã xếp đặt các yếu tố xây đắp mỗi đứa chúng con. Ấy vậy, Ðấng Tạo thành vũ trụ, Ðấng đã nắn đúc con người khi sinh ra và đã là nguồn gốc của tất cả mọi sự, người sẽ trả lại cho chúng con, trong lòng lân mẫn Người, sinh khí với sự sống, một khi chúng con đã không màng đến chính mình để bênh vực các Luật của Người".
Antiôcho tưởng cho mình bị nhạo báng và nghĩ đó là lời mạt sát ông. Với cậu bé nhất còn sống sót, chẳng những ông ra lời phủ dụ mà còn thề thốt cam đoan mình sẽ ban cho cậu của cải, làm cho cậu hạnh phúc, nếu cậu từ bỏ truyền thống của Tổ tiên, sẽ cho cậu nên thân hữu của mình và trao ban chức tước. Nhưng vì người thanh niên không thèm để ý tới, vua mới gọi bà mẹ lại và mời mọc bà hãy khuyên cậu bé hòng cứu lấy nó. Ông khẩn khoản mãi thì bà nhận việc khuyên con. Bà cúi xuống trên cậu và nhạo lừa bọn bạo chúa ác độc, bà nói thế này bằng tiếng tổ tiên:
- Con ơi, con hãy thương mẹ đấng cưu mang con 9 tháng và cho con bú mớm 3 năm, cũng đã nuôi nấng dẫn đưa con tới tuổi này và đã dưỡng dục con, mẹ xin con hãy ngước nhìn trời đất mà xem tất cả mọi vật trong đó, và hãy biết rằng Thiên Chúa đã làm ra chúng, không phải do vật chất gì đã có trước, và về loài người thì cũng như vậy! Ðừng sợ tên lý hình ấy, nhưng hãy ở sao cho xứng với các anh con và hãy chấp nhận chết, ngỏ hầu nhờ lòng thương xót của Chúa, mẹ được gặp lại con cùng các anh con".
Bà vừa dứt lời thì cậu thiếu niên nói: "Các ngươi còn đợi gì nữa? Ta không vâng theo lệnh truyền của vua, nhưng vâng nghe lệnh truyền của Lề luật đã được ban xuống cho tổ tiên chúng ta ngang qua Môisen. Còn ngươi là kẻ đã bày ra tất cả các trò độc ác này trên người Do Thái, ngươi sẽ không luột khỏi tay Thiên Chúa đâu. Vì nếu chúng ta có phải khổ, ấy là bởi tội lỗi chúng ta; nếu cốt để quở phạt và sửa dạy mà Chúa Hằng sống đã thịnh nộ chốc lát với chúng ta, thì Người sẽ lại nguôi giận làm hoà với các tôi tớ của Người. Còn ngươi, quân vô đạo, đồ khả ố hơn hết giữa mọi người hết thảy, ngươi đừng dương dương tự đắc một cách vô lối, phách tấu với những hy vọng mờ ám mà giơ tay hành hạ các tôi tớ của Người! Vì ngươi không thoát được án của Thiên Chúa, Ðấng Toàn năng hết thảy mọi sự. Quả vậy, anh em của chúng ta sau khi đã chịu khổ hình vắn vỏi để được sống muôn đời, thì bây giờ đã được đặt dưới giao ước của Thiên Chúa, còn ngươi, do sự phán xét của Thiên Chúa, ngươi sẽ mang lấy án phạt công minh xứng với sự kiêu ngạo của ngươi. Phần ta, cũng như các anh ta, ta xin phó nộp xác hồn ta vì các luật lệ Tổ tiên, mà khẩn cầu Thiên Chúa, xin Người thương đến dân tộc chúng ta và dùng những thử thách tai họa mà đưa ngươi đến chỗ tuyên xưng rằng chỉ có Người là Thiên Chúa. Ta cũng chỉ xin sự thịnh nộ của Ðấng Toàn năng đã giáng xuống cách công bằng trên tất cả giống nòi ta, đến ta và các anh em ta thì dừng lại".
Tức uất người lên, vua đã xử với cậu một cách độc ác hơn là với các người khác, vì lấy làm đắng đót lời chế nhạo ấy. Vậy họ đã qua đời hoàn toàn trong sạch và đầy lòng tin cậy vào Chúa. Cuối cùng, sau các con, người mẹ cũng đã chết Tử Ðạo. (2 Mac 7,1-19; 20,41).
13. Tông đồ trong gia đình
* Phương tiện độc nhất để biến đổi tâm hồn bạn mình là chấp nhận bạn như thuở ban đầu, vì được yêu thương là điều kiện cần thiết để biến đổi (ÐHV 470).
* Chúa đã trao cho con một người bạn thân yêu, những đứa con xinh xắn, trong sáng để nâng đỡ nhau nên thánh. Con đã làm gì? (ÐHV 485).
Gia đình em Cécilia cư ngụ ở mạn Bắc Ý, trong một xóm lao động nghèo nàn. Từ sáng sớm, ba em là một công nhân phải đến sở làm việc và mãi tới 8, 9 giờ tối mới về tới nhà. Vì thế, chẳng mấy khi Cêcilia gặp được ba. Còn mẹ thì lo việc nội trợ và làm việc phụ để kiếm chút ít thêm vô ngân quỹ gia đình. Bà rất bác ái, đạo đức. Tuy kinh tế của gia đình chẳng sung túc bao nhiêu, nhưng có gì bà đều san sẻ ngay cho lối xóm. Ai đau ốm, bà biếu thuốc men; áo quần các kẻ rách, bà bỏ giờ khâu vá hộ; nhà nào có nhu cầu, bà đem hết khả năng giúp đỡ. Cả làng xóm ai cũng quý mến bà, tấm tắc khen bà là người hiền lành phúc hậu.
Em bé Cêcilia mới 6 tuổi đầu mà đi học cấp I. Em rất hãnh diện về mẹ và cảm thấy mình sống trong một gia đình hạnh phúc, được mẹ quý mến yêu thương.
Từ hai năm nay, ở trường học của giáo xứ, em Cêcilia được huấn luyện sống Lời Chúa, nhìn thấy Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong những người bị áp bức, đau khổ. Em rất ngoan. Em thường hay chia sẻ kinh nghiệm sống với các bạn.
Một hôm thật bất ngờ như gáo nước lạnh tạt vào mặt, một đứa bạn nói: "Này Cêcilia, mẹ mày thực tốt, nhưng khốn khổ vô cùng!"
- Sao thế?
- Mày đừng tưởng gia đình mày hạnh phúc, vì bố mày đêm nào về đến nhà cũng say sưa be bét. Ông đánh đập, chửi mắng mẹ mày, hàng xóm nhà nào cũng nghe, mày không tin thì cứ thử rình xem!
Câu nói đó như sét đánh vào tai Cêcilia... Bao nhiêu giấc mơ xinh đẹp về gia đình phút chốc tan tành sụp đổ. Tất cả hãnh diện trở thành tủi nhục. Quá xấu hổ với bạn, Cêcilia đành cúi mặt làm thinh.
Tối hôm ấy, mẹ Cêcilia cho em ăn cơm sớm để em có thời giờ học bài, rồi bà đưa em lên gác. Xong kinh tối, bà ôm hôn con, đắp chăn cho con rồi nhè nhẹ xuống nhà làm việc, đợi chồng về ăn cơm cùng một thể.
Nhưng đêm hôm ấy Cêcilia chẳng tài nào ngủ được, mà em cũng quyết không ngủ để xem câu chuyện các bạn nói hồi chiều có đúng không. Em cứ trằn trọc thao thức cho đến khi tiếng chuông gọi cửa vang lên. Cêcilia nghe rõ tiếng mẹ ra mở cửa. Vứt chăn cách mau lẹ, em rón rén bước nhẹ từng bước đi xuống thang gác, nép kỹ sau bức màn và hồi hộp theo dõi...
Một cảnh tượng hãi hùng đang diễn ra trước mặt Cêcilia: Ba em đầu tóc rối bù, hơi thở sặc toàn mùi rượu. Ông ném mạnh mũ và áo xuống nền nhà; bà mẹ dịu dàng thu nhặt cất vào tủ, vui vẻ dọn bàn mời chồng ăn tối. Ðôi mắt đỏ ngầu, ông trợn trừng nhìn bà chê lui chê tới, rồi tuôn ra hằng loạt lời mắng chửi như điên. Bà mẹ cúi mặt làm thinh, vừa ăn vừa khóc. Lát sau, ông lùa nguyên cả mâm cơm xuống nền nhà, chén bát vỡ tan tành, đồ ăn chảy lênh láng... Cũng chưa vừa ý, ông còn tặng vợ những cú đá tàn nhẫn.
Sau bức màn, Cêcilia chết lịm. Em thầm thỉ: "Thôi đúng rồi, tụi bạn đâu có nói oan... cả lối xóm đều biết cả... Khốn nạn quá!"
Gượng mình đứng dậy, Cêcilia rón rén lên gác.
Hôm sau bi kịch ấy lại tái diễn trước mắt Cêcilia... Tuy thế sáng nào Cêcilia thấy mẹ cũng vui tươi, nén lòng lao mình vào công việc phục vụ đàn con nhỏ. Riêng Cêcilia thì tâm thần bấn loạn, lòng đã đau xót. Em suy nghĩ, cầu nguyện, nhớ lại Lời Chúa và thương mến mẹ vô cùng, thấy bà tuy đau khổ vì chồng, nhưng vẫn một mực thương yêu trọng kính. Chúa Giêsu đang bị bỏ rơi trong ba, trong mẹ, Cêcilia xác tín được điều đó. Em băn khoăn suy nghĩ hoài, nhưng chẳng biết làm sao. Cuối cùng Chúa soi sáng cho em một diệu kế rất hay.
Từ nay, tối nào Cêcilia cũng nằm thức chờ ba. Vừa nghe tiếng chuông, em liền ra cổng đón ba, cất áo mũ cho ba. Vừa kéo ghế cho ba ngồi, em quay sang giúp mẹ dọn bàn. Trong suốt bữa ăn, em cứ ngồi kề bên ba, ríu rít kể những chuyện vui ở trường, hỏi thăm ba công việc ở sở. Thoạt đầu ba em rất lấy làm lạ, càu nhàu khó chịu, nhưng dần dần cũng đành chịu thua con, thấy trong lòng vui vui... Nhiều lúc Cêcilia đứng giữa nhà hát cho ba nghe các bài hát ở trường em. Ông thích thú lắm. Bầu khí gia đình ngày càng nhẹ nhàng, dễ chịu. Mỗi lần ông bảo: "Cêcilia đi ngủ đi, để sớm mai còn dậy sớm đến trường", Cêcilia đều nũng nịu "Con thương ba nhọc mệt suốt ngày, con muốn ngồi mãi với ba". Tuy vẫn còn ngà ngà say, ông cũng lấy làm cảm động vì câu nói đơn sơ của con, đoạn choàng tay ôm hôn con một cách âu yếm.
Ba tháng trôi qua, bi kịch ngày xưa đã lui vào dĩ vãng. Một hôm như thường lệ, ba Cêcilia bảo: "Ði ngủ đi, mai con dậy sớm đến trường mà con!", Cêcilia âu yếm ôm choàng lấy ba và nói: "Ba ơi! ba biết tại sao con không đi ngủ không?" - "Ba chả biết! Con thức vớ vẩn gì cho hại sức khỏe" - "Không đâu ba ạ! Nếu ba má thương con, ba má cho phép con nói nhé! Mà đừng mắng con" - Ừ, nói đi ba má nghe thử".
Cêcilia đánh bạo thuật lại cách đơn sơ làm sao em đã bị xúc động và tủi nhục trước câu nói của một người bạn, rồi hằng đêm, sau bức màn che, em đã chứng kiến tất cả... Cêcilia thú thực là em thương ba má lắm. Em thấy Chúa Giêsu bị bỏ rơi trong ba, trong má; vì thế em muốn mang Chúa đến cho ba má, yêu thương người đang bị bỏ rơi trong ba má... Nên mấy tháng nay, em đã thi hành diệu kế như trên... Càng nghe, hai ông bà càng cảm xúc. Họ mừng mừng, tủi tủi, không ngờ con bé khôn ngoan, đạo đức như vậy. Ba má Cêcilia ôm siết lấy con, nghẹn ngào nhìn nhau... Lát sau ba Cêcilia mới thốt lên lời: "Từ nay con phải đi ngủ sớm nghe không! Ba hứa với con: ba má sẽ hòa thuận, thương yêu nhau. Ba má cũng sẽ tìm hiểu và sống Lời Chúa như con. Ba má thương yêu con lắm!"
14. Cây thông đâu cần học giáo lý
* Chuẩn bị làm linh mục có chủng viện, chuẩn bị làm tu sĩ có đệ tử viện, tập viện, chuẩn bị làm giáo sư có trường sư phạm, chuẩn bị làm cha mẹ có gì? - Không có gì cả! Thật là một thiếu sót lớn lao trên thế giới. Lúc này tạm có lớp dự bị hôn nhân nhưng chưa đi đến đâu. Bao nhiêu người sẽ là nạn nhân do cuộc phiêu lưu của các con? (ÐHV 463).
Câu chuyện sau đây xảy ra ở xứ Escles, miền Vosges nước Pháp, khoảng cuối thế kỷ XIX. Một hôm, cha xứ gặp một bà mẹ và bảo:
- Bà nhớ cho mấy cháu đi học giáo lý để chuẩn bị rước lễ vỡ lòng nghe!
- Cho hay không cũng chẳng quan hệ gì. Bà vừa nói vừa chỉ tay về phía rừng thông. Cha xem! Cây thông đâu cần học giáo lý mà chúng vẫn tươi tốt và phát triển như thường đó!
- Ờ.. vậy con heo trong chuồng cũng thế phải không bà?
Sau đó một thời gian, vào năm 1910, cả xứ Escles xôn xao trước hung tin: cậu con trai của người đàn bà nói trên đã bóp cổ giết chết mẹ vì bà ta không đưa tiền cho nó đi tiêu xài, nhậu nhẹt... Mạng lưới pháp luật đã tóm cổ nó và tuyên án tử sau đó mấy ngày.
-----o0o-----
20- Khiêm Nhường
1. Quỳ gối đọc thư Bề trên
* Hồn tông đồ khiêm tốn và tạ ơn Chúa như Phaolô: "Tôi là kẻ rốt hèn trong các tông đồ và tôi không đáng được gọi là tông đồ... Nhờ ơn Chúa mà tôi được như ngày nay." (ÐHV 508).
* Kiêu ngạo là ăn cướp ơn Chúa, vinh danh Chúa, để làm của riêng con, công nghiệp con (ÐHV 511).
* Ðừng chối những khả năng của con, những thành công của con. Hãy tạ ơn Chúa vì ngài xử dụng con như họa sĩ dùng ngòi bút ba xu (ÐHV 515).
* Cương quyết vâng lời Hội Thánh là trung thành. Quyết liệt hy sinh vì nhiệm vụ là can đảm, không phải kiêu ngạo (ÐHV 518).
Mặc dù bước chân Phanxicô Xaviê đã rảo khắp gần hết Á-châu đi giảng đạo, ngài lại có bằng Tiến sĩ Ðại học Sorbone trong tay, rồi còn kiêm nhiệm luôn chức Khâm sai Tòa Thánh, trong lúc Ignatiô Bề trên của ngài, chỉ là một cựu sĩ quan ít học, nghèo hèn, nhưng mỗi lần nhận được thư của Bề trên, Phanxicô đều quỳ gối đọc thư cách cung kính. Rồi khi viết thơ cho Bề trên cũng thế, ngài quỳ gối để tỏ lòng cung kính vị đại diện Chúa và Giáo Hội!
2. Khiêm tốn và hiền lành đích thực
* Con chỉ hiểu được đức khiêm nhượng khi suy nghiệm cả cuộc đời Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa hạ mình chịu mọi sự ngớ ngẩn, dốt nát, hiểu lầm sâu độc, suốt 33 năm vì yêu chúng ta (ÐHV 510).
* Chỉ người khiêm nhượng thật mới được an vui như Chúa Giêsu dạy: "Hãy học cùng ta vì ta hiền lành và khiêm nhượng thật trong lòng và các con sẽ tìm thấy bình an cho tâm hồn." (ÐHV 516).
* Không thể tránh căng thẳng, nhưng giảm bớt căng thẳng được. Trước hết Chúa không buộc con làm tất cả mọi sự. Thứ đến việc gì Chúa giao con làm, Chúa ban thời giờ và phương tiện. Nếu với tất cả cố gắng và thiện chí, con không thực hiện được là Chúa không muốn. Tại sao căng thẳng ngã lòng? Cứ bình an! (ÐHV 522).
Thánh Phanxicô Salêsiô có bẩm tính rất nóng nảy, họ hàng, bạn bè ai cũng biết thế...
Một hôm, có người đến Tòa Giám mục Annecy để thăm thánh nhân. Trong câu truyện trao đổi hai bên, ông ta nhiều lần lớn tiếng cãi vã, đấm bàn, đấm ghế, chỉ trích phê bình và mắng nhiếc thánh nhân thậm tệ. Thế nhưng, thánh Phanxicô cứ ngồi nghe cách thinh lặng, thỉnh thoảng lại mời ông khách xơi trà hút thuốc. Trước những câu nói nặng nề xấc láo, thánh nhân vẫn đáp lại những lời lẽ hết sức dịu dàng, khiến ông khách quý bắt đầu cảm thấy thẹn thùng rồi từ từ rút lui.
Người anh của thánh nhân ngồi ở phòng sau chăm chú theo dõi câu chuyện hai bên. Khi người khách vừa ra khỏi cổng, ông phóng mình ngay ra phòng khách thánh nhân và lạ lùng thay... Phanxicô vẫn tươi cười bình tĩnh. Ông liền nói:
- Nè chú Phanxicô, xưa nay tính chú nóng như lửa sao độ này lại hiền lành nhịn nhục đến thế. Tôi ở phòng sau nghe lão ta nói mà sốt ruột lên gan, muốn nhào ra đánh cho một trận cho vỡ mật ra. Ðồ lếu láo, mất dạy!
- Anh à! ai cũng có máu Adong cả. Em cũng bực tức, xung giận lắm, nhưng em cố gắng theo gương Chúa Giêsu, hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Cứ mỗi dịp như vừa rồi, em lại tập thêm một ít bằng cách tự bảo: Này hỡi Phanxicô, hãy đậy kỹ vung, đừng mở, đừng nói gì ráo! Cuối cùng em thấy rằng: lấy một giọt mật, bắt được cả bầy ruồi; chứ cậy cả thùng giấm, chẳng tóm được một con.
3. Một vị Hồng Y khiêm tốn
* Bao lâu con còn tôn thờ cái "tôi" của con, chẳng khác nào con cầu nguyện: "Lạy Chúa xin Chúa hãy tin con, hãy trông cậy vào con." (ÐHV 519).
* Thử thách cay đắng nhất là chấp nhận giới hạn mình. Chịu đóng đinh vào một thánh giá nhỏ hẹp, con càng đau đớn hơn. Nếu thánh giá rộng, con còn được thoải mái hơn phần nào! (ÐHV 520).
Năm 1974, người ta nghe một lúc hai tin dồn dập:
- Ðức Cha Goiburu mới qua đời!
- Ngài được thăng chức Hồng Y từ lâu!
Thật thế, sau khi Ðức Cha Goiburu đã nhắm mắt ra đi Ðức Giáo hoàng Phaolô VI mới công bố ngài là một Hồng Y "in pecto" (giữ kín) của Hội Thánh Công giáo.
Lòng trung thành của ngài đối với Hội Thánh đã được Ðức Phaolô VI ban cho vinh dự cao quý nói trên. Ðức Giáo hoàng còn cho biết thêm: sau những năm ngồi tù ở Bungari, Ðức Cha Goiburu bị quản chế trong một xứ nọ. Khi được tin Ðức Thánh Cha chọn mình làm Hồng Y bí mật, ngài đã trình bày cùng Ðức Thánh Cha như sau: "Nay con yếu đuối lại đang ở trong vòng kỷ luật, xin Ðức Thánh Cha hãy để chức Hồng Y lại cho một người khác có khả năng hơn con". Thấy lòng khiêm tốn của Ðức Cha Goiburu, Ðức Thánh Cha càng quý mến hơn và giữ y quyết định và phong ngài làm Hồng Y "không công bố".
4. Ðức khiêm tốn của một vị Giáo hoàng
* Nếu con hiểu biết hạnh phúc được làm con Chúa thì những điều sỉ nhục không thấm gì con và những lời hoan hô cũng chẳng thêm gì cho con (ÐHV 506).
* Nếu con biết rõ mình con, con sẽ tức cười, khi nghe tung hô con, và con thấy các sự khinh rẻ con là có lý. Con lại ngạc nhiên tại sao người ta mới xử ngang độ ấy thôi (ÐHV 507).
* Khi con tự hạ mình, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, chưa hẳn con khiêm nhượng. Khi người ta hạ con, mà con vui lòng chấp nhận vì Chúa, lúc ấy con khiêm nhượng thật (ÐHV 509).
* Coi chừng khiêm nhượng "giả hiệu" khi con từ chối mà kỳ thực là thoái thác bổn phận dấn thân của con và sợ chịu sỉ nhục vì Chúa (ÐHV 514).
* Người khiêm nhượng như hạ mình sát đất không còn ngã xuống đâu nữa. Người kiêu ngạo như leo trên tháp cao, rất dễ nhào và ngã nặng khủng khiếp! (ÐHV 517).
Lúc được phong chức Tổng Giám mục, Ðức Cha Roncalli là Khâm sứ Tòa Thánh kiêm Ðại diện Tông Tòa quản trị các giáo phận ở Bungari và Thổ. Công việc của ngài rất khó khăn phức tạp, vì phải trông coi cả một vùng rộng lớn đang sôi động về mặt chính trị, chia rẽ về mặt tôn giáo: Công giáo với Tin lành, Chính thống, Hồi giáo rồi trong chính đạo Công giáo: các linh mục triều lại chia rẽ với các tu sĩ.
Trong lúc thi hành công việc mục vụ, Ðức Tổng Giám mục Roncalli nhận được một bức thơ nặng lời chê bai chỉ trích ngài về mọi mặt, do tay một linh mục bất mãn viết. Ðọc thơ xong, Ðức Cha Roncalli không nói một lời, lòng vẫn thiết tha yêu vị linh mục ấy.
Thời gian trôi qua, ngài được thăng chức Sứ thần Tòa thánh tại Paris, rồi Hồng Y Giáo chủ ở Venêzia và cuối cùng đắc cử Giáo Hoàng với danh hiệu là Gioan XXIII năm 1958.
Linh mục bất mãn viết thơ năm nào vẫn còn sống. Một hôm gặp dịp giáo dân trong vùng tổ chức một cuộc hành hương sang Roma để yết kiến Ðức Tân Giáo Hoàng cũng là vị cựu Tổng Giám mục yêu quý của họ ngày xưa, linh mục ấy cũng ghi tên theo phái đoàn. Ðến Roma, ngài lại xin cho được đặc ân tiếp kiến riêng Ðức Giáo Hoàng. Lời thỉnh cầu ấy được Ðức Gioan XXIII chấp thuận. Sau đây là câu chuyện do chính cha ấy thuật lại:
"Trong lúc đứng ở phòng khách trên lầu cao Vatican để đợi đến phiên vào triều yết Ðức Thánh Cha, đầu óc tôi cứ nghĩ tới bức thơ bất mãn năm xưa mà lòng tôi vô cùng hối hận. Tôi trộm nghĩ: đã mấy chục năm trôi qua rồi, giờ đây chắc hẳn Ðức Thánh Cha không còn nhớ gì! Nhưng rủi ngài còn nhớ thì sao? Mà thôi, đã lỡ xin phép gặp ngài riêng, giờ muốn rút lui cũng không được nữa... Lòng tôi cảm thấy xao xuyến hồi hộp: Hy vọng ngài nhân hậu sẽ bỏ quên và tha thứ cho tôi...
"Ðang lúc suy nghĩ miên man thì bỗng cánh cửa xịch mở, Ðức Ông phụ tá dẫn tôi vào. Vừa thấy tôi, Ðức Thánh Cha đã niềm nở đưa tay bắt và mời ngồi. Ngài ân cần hỏi thăm công việc mục vụ của tôi, của giáo phận và bùi ngùi nhắc đến những bạn cũ năm xưa. Ngài thương nhớ tất cả, không trừ một ai, như thể xứ sở tôi chính quê hương của ngài vậy.
"Lúc ấy lòng tôi khấp khởi, vì chắc Ðức Thánh Cha đã quên hẳn bức thơ hỗn láo năm nào... Câu chuyện vẫn tiếp tục trong bầu khí vui vẻ thân tình; bỗng tôi thấy ngài đưa tay với lấy cuốn Kinh Thánh, và từ từ mở ra... ngài để trước mắt tôi bức thơ khốn nạn! Hồn phách lạc xiêu, tôi xấu hổ và sợ hãi quá đỗi, ước chi được độn thổ khuất mặt cho xong! Có ai ngờ mấy chục năm qua mà bức thơ vẫn còn nguyên. Tôi đang lúng túng với muôn ngàn âu lo thắc mắc thì Ðức Thánh Cha đã cầm lấy tay tôi và dịu dàng bảo: "Con đừng hoảng sợ, cha không bao giờ giận con đâu. Cha cám ơn con. Cha cũng là người, cũng yếu đuối, cha ngăn bức thơ con viết vào Kinh Thánh để hằng ngày đọc vào đó mà xét mình, hầu có thể dứt khoát với những khuyết điểm còn tồn tại hoặc xa tránh những lầm lỡ có thể xảy đến trong tương lai. Mỗi lần như thế cha lại nhớ đến con và cầu nguyện cho con". Nghe xong, linh hồn tôi chu du phương xa lúc ấy mới trở về! Tôi lấy lại bình tĩnh, nhận quà ngài trao tặng. Ngài còn chúc lành cho tôi, ôm hôn từ giã tôi. Tôi ra về, lòng không bao giờ quên được chân dung của vị Giáo Hoàng hiền lành khiêm nhường đến thế".
5. Em chỉ là một cái chổi
* Ðức Maria càng khiêm tốn, thì càng trong sáng, vì càng thấy rõ những sự kỳ diệu Chúa làm trong lòng Mẹ. Như ánh sáng qua một bóng đèn thủy tinh không vướng bụi. (ÐHV 512).
* Người sống trước mặt Chúa không thể kiêu ngạo được. - Ngạo về điều gì? - Tất cả đều là của Chúa! (ÐHV 513).
Sau khi được diễm phúc thấy Ðức Mẹ hiện ra ở Lộ Ðức nước Pháp, chị Bênadêta đã xin vào tu viện một dòng Kín ở Nevers. Một ngày Chúa nhật kia, vào năm 1876, một nữ tu đưa cho Bênadêta xem bức ảnh người ta đã chụp chị ở hang đá Lộ Ðức trước đây để xem phản ứng chị thế nào.
Ðang chăm chú xem bức hình của mình, đột nhiên Bênadêta hỏi:
- Người ta dùng chổi để làm gì hả chị?
- Ðể quét nhà.
- Quét xong họ để chổi ở đâu?
- Trong góc nhà, sau cánh cửa, chỗ "cư trú" thường lệ của nó.
- Ðời em cũng thế chị ạ. Ðức Mẹ đã dùng em, rồi để em vào chỗ của em. Em sung sướng lắm, và em muốn ở yên trong chỗ đó mãi!
-----o0o-----
21- Cẩn Mật
1. Bí mật tòa cáo giải
* Chúa Giêsu là Ngôi Lời, nhưng để thực hiện việc tông đồ theo ý Ðức Chúa Cha, trong 33 năm, Ngài thinh lặng 30 năm và nhất là trong giờ tử nạn, Ngài đã thinh lặng (ÐHV 523).
* Ðừng mong rằng nói nhiều, thiên hạ sẽ thông cảm với con, càng nói càng thêm kẻ hở, thiên hạ càng hiểu ngược xuôi, xuyên tạc hơn, rồi con cứ phải đính chính lời đính chính trước (ÐHV 525).
* Mỗi khi bị kích thích muốn khoe tài, mỗi khi bị khiêu khích muốn đấu khẩu, mỗi khi bực tức muốn cho nổ tung. Thinh lặng, thinh lặng; dù khôn mấy con sẽ "phát thanh đặc biệt" và lời lẽ cũng sẽ chua cay sắc bén "đặc biệt" hơn con ngờ (ÐHV 529).
Linh mục Gioan Nêpômuxen nổi tiếng đạo đức thánh thiện nên được hoàng hậu chọn làm cha linh hướng và cha giải tội cho bà. Một ngày kia vua cho mời ngài đến và yêu cầu ngài phải nói tất cả sự thật mà hoàng hậu đã thổ lộ. Linh mục Gioan Nêpômuxen từ chối cách lịch sự vì điều ấy thuộc phạm vi lương tâm... Sau nhiều lần thúc giục và đe dọa đủ cách, nhà vua vẫn không thể bắt ngài nói một lời nào cả. Quá tức giận, vua bèn hạ lệnh chặt đầu và vất xác Gioan Nêpômuxen xuống sông. Ngài đích thực là một thánh nhân vì đã cẩn mật trung thành ấn tòa giải tội và những vấn đề thuộc phạm vi lương tâm của kẻ khác.
2. Sự "cẩn mật" của Thánh Gioan Vianney
* Cẩn mật nhiều, con sẽ hối hận ít (ÐHV 524).
* Cẩn mật đâu phải là mầu nhiệm, chỉ là sự tế nhị tự nhiên. Chẳng hạn con đâu muốn ai đem cuộc đời cá nhân của con ra phơi bày bàn tán công khai (ÐHV 531).
Giáo dân khắp nơi tuôn đến xứ Ars càng ngày càng đông khiến cha Vianney phải giải tội suốt ngày đêm để tiếp nhận nhiều linh hồn trở về với Chúa. Tăm tiếng ngài một lúc một lớn. Nhưng vì có tâm hồn khiêm tốn, cha cứ nài nỉ xin Ðức Giám mục cho mình được vào Dòng khổ tu để ăn chay cầu nguyện. Ðức Giám mục không chấp thuận. Lòng cha Vianney càng thêm khắc khoải lo âu. Ðến một hôm, ngài tới một quyết định gớm ghê: "trốn". Phải trốn khỏi giáo xứ, rồi sau xin phép Giám mục. Và cha quyết giữ bí mật.
Tối ấy, ngài gọi riêng bà Catarina Latxan là người hiện đang trông coi viện mồ côi đến và nói: "Con cố gắng tiếp tục công việc nặng nhọc ấy một mình, vì đêm nay, lúc 10 giờ cha sẽ trốn đi, cha không về lại nữa. Con phải giữ bí mật hoàn toàn nghe!" Bà Catarina bàng hoàng xúc động thưa: "Con biết làm sao được.. Tùy ý cha! Con hứa sẽ giữ bí mật... " Cha Vianney yên tâm đi ngủ.
Nhưng cha vừa ra khỏi phòng, bà Catarina liền gặp ngay cha phó và trình bày: "Cha có biết không, 10 giờ đêm nay cha sở sẽ trốn đi. Ngài mới nói với con cách đây mấy phút và bảo con phải giữ hoàn toàn bí mật" - "Nguy quá! Ngài mà đi thì bỏ rơi biết bao linh hồn đến xưng tội nơi đây", cha phó vừa nói vừa chạy đi báo cho thầy già ngay. Câu chuyện bằng lệnh: "phải tuyệt đối giữ bí mật!
Mười giờ đêm hôm ấy, cha Vianney xách đèn bão nhẹ nhàng ra đi. Bên ngoài trời tối om, nhà nào nhà nấy im lìm đóng cửa. Vượt khỏi khuôn viên nhà thờ một quãng. Cha Vianney yên trí tiến bước. Nhưng một lúc sau đó, ngài nghe có tiếng động sau lưng. Quay lui, cha giật mình kinh hoàng. Thật là quái gỡ! cha phó, thầy già và bà Catarina đang lẻo đẽo theo sau.
- Về đi theo cha làm gì!
- Cha đành bỏ chúng con sao? Biết bao nhiêu người hằng ngày tìm đến cha để xưng tội. Rồi bao nhiêu công việc đang bỏ dở!
- Không, để cha đi thôi! cha đi vào dòng khổ tu dọn mình chết.
Thấy không thể thuyết phục ngài được, cha phó nhanh trí đáp: "Vâng, chúng con xin tùy ý cha, nhưng... thôi để chúng con đưa cha đi một quãng. Xin cha trao cây đèn bão cho con để con xách đi trước. Con còn trẻ, thấy đường rõ hơn cha!"
Cha Vianney thật thà giao cây đèn bão cho cha phó xách đi trước, ba người thinh lặng dõi bước theo sau... Hai tiếng đồng hồ trôi qua... Cha Vianney mừng thầm tự nhủ: "Chắc đi đã khá nhiều dặm". Bỗng đâu có tiếng chuông nhà thờ vang lên báo hiệu "Kinh nguyện Truyền tin". Cha Vianney giật mình nghĩ: "Ðã 12 giờ khuya, giờ mình thường lên nhà thờ ngồi toà giải tội". Ði được một quãng nữa, bốn người nghe có tiếng inh ỏi gọi nhau! Thì ra... giáo dân xa gần đợi mãi không thấy cha, tìm ở nhà xứ cũng chẳng có, họ bèn thắp đuốc đi tìm và gặp cả bốn cha con đang loanh quanh ở đầu làng!
Cha phó thật mưu mô xảo quyệt, ngài cứ xách đèn dẫn cha Vianney đi quanh trong làng, hết lối này lại đến hẻm kia. Thế là cha Vianney tuổi già mắt kém đành phải mắc mưu. Giờ đây giáo dân vây quanh cha tứ phía: người khóc bù lu bù loa, kẻ túm áo cha rồi cùng nhau đưa cha về lại nhà xứ. Cha Vianney chịu thua vì ai cũng giữ bí "bí mật tuyệt đối" cách tương đối cả!!!
Nhưng đó cũng là thánh ý mầu nhiệm của Chúa muốn cha Vianney ở lại xứ Ars để cứu nhiều linh hồn tội lỗi. Ngài muốn vào dòng khổ tu, nhưng ngồi tòa cho hối nhân còn cực hơn ở dòng khổ tu gấp bội!
3. Văn phòng cẩn mật số một
* Hạt giống rơi xuống lòng đất được chôn vùi kín đáo sẽ sinh hoa kết quả, hạt giống rơi xuống xa lộ bị chim trời tha mất, xe cộ nghiền nát (ÐHV 528).
* Bao nhiêu tác phẩm, bao nhiêu diễn văn, bao nhiêu chương trình, kế hoạch quan trọng của con, được thành công rực rỡ đều phát xuất từ tế bào âm thầm của óc não con, tức những nhịp đều của quả tim con khiến máu tuần hoàn nuôi sống các bắp thịt con hoạt động. Nội tâm thâm trầm là căn bản: hy sinh, nhẫn nại, suy tư, yêu mến (ÐHV 530).
Vì tin tưởng ở sự cẩn mật cũng như tính cách vô tư, nhân đạo, bác ái của Hội Thánh, nên trong trận đại chiến thế giới vừa qua (1939-1945), cả hai phe Phátxít cũng như Ðồng minh đều chấp nhận cho Ðức Thánh Cha Piô XII tổ chức một văn phòng tại Tòa Thánh, với nhân viên thuộc nhiều ngôn ngữ khác nhau, để đón nhận quà tặng, thư tín của các gia đình thuộc bất cứ phe nào gởi đến, rồi tìm cách trao lại cho các tù binh ở khắp nơi. Văn phòng cũng tìm hỏi tin tức của những người mất tích rồi trả lời cho các người thân yêu của họ. Hằng ngày, văn phòng nhận và gởi đi hàng vạn lá thơ, quà tặng, mang lại vui tươi cho biết bao người đang sống trong những hoàn cảnh đau thương bi đát do chiến tranh gây ra.
4. Cẩn mật khi làm việc thiện
* Chúa làm phép lạ rồi Chúa cấm nói. Chúa vinh hiển trên núi Taborê rồi cũng cấm nói. Lý tưởng tông đồ của con, con cứ ấp ủ và hành động; Chúa Thánh Thần sẽ giúp con, thế gian sẵn sàng chê bai, chống đối vì sự bất cẩn của con (ÐHV 526).
* Trong Thánh Kinh, gương Ðức Maria cẩn mật, Bà Yudith cẩn mật đã làm những việc anh hùng. Ðừng khinh phụ nữ. Lực sĩ vô địch như ông Sam-son đã bại trận vì bất cẩn thua phụ nữ Dalila. (ÐHY 527).
Hôm nọ, bá tước Livois thuộc hội từ thiện thánh Vinh-sơn đến xin tiền một bà đạo đức đang ngồi vá áo. Bá tước hỏi:
- Sao bà không may áo mới?
- Tôi tiết kiệm tiền đó dành dụm cho kẻ nghèo.
- Thế lần này bà có gì cho họ không?
- Có chứ!
Bà vừa nói vừa lấy một tờ giấy 1000 quan Pháp, rồi dùng tay trái trao cho bá tước Livois. Bá tước lấy làm lạ, vì theo phép lịch sự, bao giờ người ta cũng đưa bằng tay phải:
- Sao bà lại đưa bằng tay trái?
- Kẻo tay phải biết thì nó sẽ không chịu ngồi mạng cái áo rách của tôi!
-----o0o-----
22- Vui Tươi
1. Nhà làm xiếc tí hon
* Thánh thiện đâu phải là nhăn nhó, cực khổ, đau thương! Thánh thiện là tươi vui liên lỉ vì được Chúa, "được đất trên trời là của mình vậy" (ÐHV 532).
Nói đến thánh Gioan Boscô, ta nghĩ ngay đến một con người luôn luôn vui tươi và gây niềm vui cho kẻ khác.
Lúc còn thơ ấu, Gioan Boscô lần đi xem một gánh xiếc nhỏ đến trình diễn tại giáo xứ suốt mấy tuần lễ. Cứ mỗi chiều chúa nhật, ông chủ xiếc lại cố gắng ra tay trổ hết nghề để thu hút mỗi người đến xem. Và thế là trong nhà thờ chẳng có ai chầu Thánh Thể và đọc kinh! Gioan thấy vậy rất đau lòng. Cậu ta lặng lẽ quan sát ông chủ xiếc rồi về nhà âm thầm tập luyện.
Chúa nhật sau, cậu bé ra trước sân nhà thờ và cả gan thưa lớn tiếng với giáo dân: "Thưa bà con, cô bác, bà con cứ vào nhà thờ chầu Thánh Thể cách thong thả đừng bỏ việc Chúa. Sau giờ chầu, cháu xin được tranh tài với ông chủ xiệc này cho bà con xem, khỏi mất tiền mua vé vô ích!"
Giáo dân không tin, cậu bé cứ van nài mãi. Cuối cùng ông chủ xiếc cũng bảo: "Thôi bà con cứ vô nhà thờ đi. Sau giờ chầu xin mời tất cả ra đây xem thằng nhãi này làm gì mà cả gan thách thức tôi". Quay sang nhóc tí Gioan Boscô, ông dọa: "Nè, mày làm không xong cả làng sẽ đánh chết nghe chưa thằng nhãi!"
Vừa xong giờ chầu Thánh Thể, mọi người vội vã ra sân... Gioan Boscô đứng kề bên ông chủ xiệc. Cậu bé quá! Chỉ mới ngang hông đối thủ... Cuộc tranh tài bắt đầu.
Trước hết, ông chủ xiếc đặt chiếc gậy trên đầu ngón tay, ông cho chiếc gậy nhảy lần qua ngón tay, rồi qua vai, qua mắt, đứng trên mũi... Thiên hạ vỗ tay hoan hô nhiệt liệt; nhưng vì mũi ông ta quá to thành thử chiếc gậy phải rơi xuống đất. Ông chộp lấy, giao cho Boscô và nói: "Mày làm thử xem!" Mọi người hồi hộp theo dõi. Gioan Boscô bình tĩnh cho chiếc gậy nhảy từ đầu ngón tay, qua vai, đến mũi..., và vì mũi cậu bé quá nên chiếc gậy đứng mãi không rơi. Bà con vỗ tay hoan hô rền trời, thế là Gioan Boscô thắng được trận đầu: 1-0.
Trận thứ hai: Trước sân nhà thờ có một cây thông cao vút, ông chủ xiếc cắm cúi leo một mách lên tới ngọn cây. Mọi người vỗ tay reo hò. Ông đắc chí, tụt xuống và hất hàm hỏi Gioan: "Mày có bao giờ leo cây thông chưa?" Gioan Boscô gật đầu, xắn tay áo và phóng mạnh lên cây. Bà con trong xứ ra sức động viên: "Gắng lên! Gắng lên! Hoan hô Gioan Boscô". Thoạt chốc, Gioan đã trèo lên đến đầu ngọn. Một tràng pháo tay nổi lên rền trời ân thưởng nhà xiệc tí hon gan dạ... Bỗng mọi người đều ngưng vỗ tay không khí lặng như tờ: Vì trên cây, Gioan Boscô cố gắng leo cao hơn chút nữa, rồi nhờ thân mình nhỏ bé, cậu ghì lấy ngọn cây cho đầu trở xuống, hai chân chổng thẳng lên trời: cậu "trồng cây chuối" ngay trên ngọn! Pháo tay nổ lên như bắp rang. Ông chủ xiệc thấy nóng bừng ở tai. Gioan Boscô ghi thêm một bàn thắng nâng tỉ số lên 2-0.
Trận thứ ba: "Nè, Gioan - ông chủ xiệc nói - Mày hãy xem, đàng kia có cái ao khá rộng, bên kia ao là bờ đất hẹp, cạnh bờ ao có một bức tường bằng đá lởm chởm. Mày và tao lần lượt nhảy sang. Nếu nhảy hụt sẽ rơi xuống nước; nếu nhảy qua, đầu sẽ đánh vào tường vỡ sọ chết tươi. Mày có dám không?"
Cậy mình cao cẳng dài giò, ông chủ xiếc quyết ăn thua đủ một lần cuối cùng với Gioan Boscô. Ông phóng mạnh một cái, phút chốc đã đứng chống nạnh trên bờ ao. Pháo tay nổ rền trời. Cậu Gioan bình tĩnh, xắn tay áo, lấy đà "Vụt! Cậu sang đứng ngay dưới chân tường rồi nhanh như tia chớp, vụt thêm lần nữa, Gioan Boscô đã đứng trên bờ tường, cao hơn ông chủ xiếc. Sau một phút nín thở, nào mũ, nào nón, khăn tay... thi nhau bay lên trời. Dân chúng reo mừng phỡ lỡ, không những họ phục tài Gioan mà còn hãnh diện về cậu: Không ngờ xứ ta lại có thằng bé tài hoa hơn ông chủ xiệc lão luyện đến thế!" Gioan ghi bàn thắng cuối cùng với tỷ số 3-0. Ông chủ xiệc thẹn thùng, quơ nhanh dụng cụ rồi bỏ đi... Từ đó, mỗi lúc có lễ lớn, trong xứ lại được Gioan biểu diễn mua vui cho hết mọi người. Ai cũng mến yêu thán phục cậu.
2. Gioan Boscô làm ảo thuật
Gioan Boscô vào trường học chẳng được bao lâu, chúng bạn đã đồn tới tai Bề trên: "Thằng Gioan Boscô nó biết làm ảo thuật! Nó có phép ma quỉ gì mà lạ quá!" Thế rồi một hôm, Gioan Boscô bị gọi lên văn phòng Bề trên. Gõ cửa xong, được lệnh, cậu rón rén đi vào. Ðôi mắt cha Bề trên núp sau gọng kiếng đăm đăm nhìn cậu bé. Gioan đứng khép nép. Cha bề trên hỏi: "Gioan, con nói thực cho cha nghe, người ta đồn rằng, con có tài ảo thuật hay phù phép ma quỉ gì đó phải không?" - "Thưa cha không, con đâu có phù phép gì! con chỉ đùa với chúng bạn đôi chút cho vui thôi!" - "Ðùa thì đứa nào chả đùa! nhưng mấy đứa kia có làm phù phép đâu! Phải khai rõ cho cha nghe. Cha biết hết. Ðứa nào cũng nói con có phù phép. Nếu con không nói thực, cha sẽ đặt vấn đề về con trong kỳ họp hội đồng của các cha nay mai" - "Thưa cha, con sẽ khai, nhưng trước hết, xin cha cho con biết bây giờ là mấy giờ rồi ạ?" Hơi ngạc nhiên, cha bề trên bảo: "Con đợi cha chút". Rồi ngài lật sách lật vở, mở tung ngăn kéo, xỏ tay vào túi quần áo cũng chẳng thấy chiếc đồng hồ đâu. "Lạ quá! chiếc đồng hồ quả lắc thường vẫn được cha đặt trên bàn mà!" Cậu Gioan tươi cười ngả tay ra trước mặt ngài: "Thưa cha, đồng hồ của cha đây". Cha bề trên bây giờ mới hiểu ra; ngài vừa cười vừa nói: "Thôi, cha hiểu rồi, con nhanh nhẹn tinh quái lắm. Từ rày trở đi cứ đùa cho vui đi! Cha đã hiểu phù phép của con rồi!" Thì ra cậu Gioan vừa bước vào phòng đã đoán biết bề trên có chuyện thắc mắc về mình, liền quơ ngay chiếc đồng hồ nhét vào túi để trả lời ngài một cách khéo léo, hóm hỉnh!!!
Sau này, lúc đã trở thành linh mục lập dòng, ngài luôn nhắc nhở mọi người trong nhà một khẩu hiệu: "In hymmis et canticis: Hãy ca vui lên!" (ÐHV 532).
3. "Tôi sẽ mỉm cười"
* Tại sao không vui? Chắc là giữa tâm hồn con với Chúa có điều gì không thỏa. Xét mình đi, con sẽ thấy ngay (ÐHV 534).
Một chị nữ tu nọ gặp nhiều thử thách, nào là va chạm trong cuộc sống chung đụng với chị em, nào là khi công việc không thành công liền bị phê bình chỉ trích thế này thế khác... Những thử thách ấy lắm lúc làm chị nản lòng thối chí. Nhưng sau những giây phút suy niệm Lời Chúa trước Chúa Giêsu Thánh Thể, chị đã quyết tâm sống can đảm, chị làm việc vì Chúa, chị tìm kiếm thánh ý Chúa không sợ dư luận bàn tán vào ra. Chị chọn một câu châm ngôn rất đơn sơ: "Tôi sẽ mỉm cười". Sáng vừa thức dậy, chị nói ngay: "Hôm nay tôi sẽ mỉm cười". Trước mọi hoàn cảnh khó khăn, chị tự nhủ: "Tôi sẽ mỉm cười". Từ đó công việc hóa ra nhẹ nhàng, mọi người chung quanh chị cũng được thoải mái vui tươi.
4. Ðại linh hướng mà vẫn tiếu lâm
* Con không có tiền? Con không có quà để tặng? Con không có gì cả. Con quên tặng họ niềm vui, tặng sự bình an mà thế gian không thể cho được, kho tàng vui tươi của con phải vô tận (ÐHV 540).
Cha Dom Marmion (1858-1923) là một linh mục gốc người Ái Nhĩ Lan, tu Dòng thánh Bênêđictô, về sau qua Bỉ và làm Ðan Viện Phụ ở đó. Ngài có tính luôn luôn khôi hài vui vẻ. Mặc dù đang ở trong một Dòng khổ tu thinh lặng, sống đời chiêm niệm liên lỉ, và có lòng đạo đức thánh thiện đến nỗi được Ðức Hồng Y Mercier tín nhiệm chọn làm cha linh hướng, mặc dù là tác giả một bộ sách tu đức giá trị nổi tiếng, cha Dom Columban Marmion vẫn luôn luôn là một con người nhẹ nhàng, thoải mái, thảnh thơi. Lần kia, ngài từ Ái Nhĩ Lan sang Bỉ, vì gấp quá không kịp mua vé tàu thủy, nên ngài cứ xách đại va-li lên tàu. Khi tàu đang lênh đênh giữa biển khơi, cha Marmion biết được ông thuyền trưởng cũng là người Ái Nhĩ Lan, nên ngài tìm cách gặp ông và nói: "Chào ông thuyền trưởng, tôi đến thú tội với ông: tôi đi lậu không có vé tàu!"
- Thế thì lôi thôi lắm. Sao cha không mua vé?
- Thưa ông, biết được ông là người Ái Nhĩ Lan, tôi cũng là người Ái Nhĩ Lan, mà người Ái Nhĩ Lan ta có bao giờ có đi xa mà mang theo giấy vé gì đâu, ngay cả đi vào thiên đàng cũng vậy!
Ông thuyền trưởng phá lên cười. Thế là huề cả làng. Chẳng những thế, ông còn tiếp đãi người đồng hương vui tính cách long trọng nữa.
Trong Ðan viện của ngài có vị Viện Phụ Cả, dáng người gầy ốm, khắc khổ, thánh thiện, chu chu chắm chắm. Còn ngài, vị Viện phụ nhà thì ngược lại: quá sức béo mập, thoải mái, tiếu lâm và tươi cười luôn. Do đó, vào những giờ giải trí ngoài sân, các tu sĩ thích tụ lại quanh ngài để nghe ngài nói chuyện, cha con tâm sự "tò te" với nhau hàng giờ mà không chán. Các tu sĩ thích gọi ngài bằng biệt hiệu "thứ Ba béo (Mardi gras)", còn Viện Phụ Cả thì được gọi bằng danh hiệu "thứ Tư lễ tro". Ðó là vì xưa nay, người Âu châu có thói quen đánh chén ngày thứ Ba áp lễ Tro thực khoái chí say sưa, để rồi 40 ngày sau, họ ăn chay kiêng thịt, hãm mình đền tội.
Niềm vui vẫn không thiếu trong những cuộc đời chiêm niệm khắc khổ vậy.
5. Trước giờ chết vẫn vui
* Nếu con làm vì Chúa, tại sao con nản lòng? Càng gian truân con càng vui tươi như Gioan và Phêrô bị đánh đập ở hội đường "ra về vui vẻ vì được xứng đáng chịu sỉ nhục vì danh Chúa"; như Phaolô: "Tôi tràn đầy vui tươi giữa những thử thách của tôi" (ÐHV 536).
* Thành công, con cảm ơn Chúa; thất bại, con cũng cảm ơn Chúa, vui tươi mãi... Chính là lúc Chúa muốn thử xem con làm vì Chúa hay vì ý riêng con. Vui vẻ, can đảm lúc thất bại khó khăn hơn hân hoan lúc xuôi may; hạng anh hùng này con đếm được đầu ngón tay (ÐHV 537).
Thánh Thomas More chào đời ở Luân Ðôn năm 1478. Sau khi giúp việc một thời gian cho Giám mục Morton, ngài đã theo Ðại học Oxford, về sau còn chuyên về thêm ngành luật. Mùa Xuân 1505, ngài bắt đầu cuộc sống đôi bạn, xây dựng gia đình thành một tổ ấm gương mẫu, đạo đức. Sau khi được thăng đến chức đại phán quan, với bao lời mua chuộc dụ dỗ, ngài vẫn cương quyết không chấp nhận cuộc hôn nhân giữa vua Henri VIII và cô Anna Boley. Nhà vua tìm hết cách bố trí cho ngài làm Tổng Giám mục Anh giáo, ngài cũng từ chối cách lịch sự mà cương quyết. Quá thất vọng, bực tức, bạn thân hóa nên thù địch, nhà vua hạ lệnh giam ngài trong một nhà tù tại Luân Ðôn. Trước khi chịu Tử Ðạo ngày 6.7.1525, ngài đã mạnh dạn tuyên bố: "Tôi biết tại sao tôi bị kết án... Bỏ cuộc sống đời này, tôi vào cuộc sống mới trong sự quan phòng của Thiên Chúa... Xin Chúa chúc lành ban ơn cho Ðức Giám mục Fischer và cải hóa nhà vua". Lúc bước lên đoạn đầu đài, chiếc khăn quàng cổ của ngài bị gió bật tung ra, ngài còn khôi hài bảo tên lính: "Xin quàng chiếc khăn lại giùm tôi". Tên lính bảo: "Ông sắp đứt đầu rồi còn sợ lạnh hay sao mà còn đòi quàng cổ?" Ngài vừa cười vừa đáp: "Sức khỏe là của Chúa ban, tôi phải bảo quản cho tới giây phút cuối cùng". Ðoạn ngài nói với ông bạn đưa tiễn ngài: "Cám ơn anh đã đưa tôi lên máy chém. Việc đi xuống tôi tự liệu lấy".
Hồng Y Gioan Fischer, người được Thomas More nhắc đến trong giờ cầu nguyện trước giờ vĩnh biệt, là Ðức Giám mục của Giáo phận Rochester. Ngài bị bắt tại Luân Ðôn, cũng với một lý do tương tự như Thomas More. Vì lòng nhiệt thành và nhân đức, ngài được Ðức Thánh Cha Phaolô III ban tước hồng y chính trong thời gian đó. Vua Henri VIII được tin ấy liền ngạo mạn tuyên bố: "Giáo Hoàng Roma có gửi mũ hồng y đến thì Giám mục Fischer cũng chẳng còn đầu để mà đội". Ngay sau đó, ngài bị kết án tử hình. Vui mừng vì mình đã chu toàn nhiệm vụ Chúa giao phó, trước khi bước lên đoạn đầu đài. Hồng Y Gioan Fischer đã cất cao bài Te Deum (Tạ ơn) trong niềm hoan hỉ của một chứng nhân đức tin hy vọng sẽ được thấy mặt Chúa. Hôm ấy là ngày 22.6.1535.
6. Các thánh không buồn
Nhìn vào "Tự điển cuộc sống" của thánh Vianney, người ta đọc thấy toàn là những chữ: ăn chay, hãm mình, đền tội, khổ nạn... Nhìn vào gương mặt của ngài, người ta cũng gặp toàn là những nét: gian truân, khắc khổ, lao nhọc, đau thương... Thế nhưng trong con người ấy lại chói ngời một quả tim luôn vui tươi, từ ái với hết mọi người. Ngày ngày, vào khoảng 12 giờ cha Vianney rời nhà thờ và trở về nhà xứ để ăn trưa. Ðến một giờ, ngài lại vào tòa giải tội và ngồi ở đó cho mãi tới tối. Trong khoảng thời gian nghỉ ngơi vắn vỏi ấy, cha Vianney phải tranh thủ để làm biết bao công việc: thường thường ăn cơm bao giờ cũng đứng, vì ngồi thì sợ kéo dài giờ ra. Vừa ăn xong, ngài vội đi thăm các trẻ mồ côi, các em mẫu giáo... Ai cũng thấy ngài vui tươi âu yếm và sung sướng giữa những tâm hồn đơn sơ ấy. Từ giã các em, ngài rảo bước đến nhà các kẻ ốm liệt; gặp ai dọc đường, ngài cũng an ủi thăm hỏi. Các gia đình đều mong cha sở đến thăm, vì đối với họ, dường như nơi ngài, tàng ẩn một niềm vui không bao giờ vơi. Lúc trở lại nhà thờ, ngài cũng trao đổi một vài lời vắn tắt, có lúc dí dỏm, hài hước với khách hành hương đang đứng trước sân nhà thờ chờ đến lượt vào tòa xưng tội.
Lần nọ, cha Vianney gặp một bà trong xứ đến chào ngài. Biết bà là người thật lắm mồm lắm mép, nói huyên thuyên suốt ngày, ngài liền hỏi:
- Trong suốt năm, có tháng nào con nói ít hơn mọi tháng không?
Bà ta bỡ ngỡ ấp úng thưa:
- Thưa cha, con thì quen thói rồi, tháng nào con cũng nói như nhau cả.
- Không, có một tháng con nói ít hơn. Con biết tháng nào không? Bà ngẩn ngơ:
- Tháng nào, thưa cha?
- Tháng hai dương lịch, vì tháng đó chỉ có 28 ngày, 29 ngày thôi.
Ai nấy cười phá lên. Ngài vội vã bước vào tòa giải tội.
Lần khác, cha Vianney thấy ở trước sân nhà thờ có một quày hàng bán chuỗi, tượng ảnh và có cả hình của ngài nữa. Ngài bèn dừng lại, cầm lấy tấm hình của ngài đưa lên cao cho mọi người xung quanh coi và nói: "Thiên hạ dại dột thực, cái hình nhăn nheo như con khỉ khô này mà cũng phải mua mất một đồng quan!" Các người chung quanh được dịp cười bể bụng lăn chiêng. Cha Vianney cũng cười, giao trả tấm ảnh lại rồi bước vào nhà thờ.
7. Những bông hoa nhỏ trong đời Ðức Gioan XXIII
* Vui với người thương con. Vui với người ghét con. Vui lúc con hớn hở. Vui lúc lòng con đau khổ tê tái. Vui lúc mọi người theo con. Vui lúc con cô đơn bị bỏ rơi. Vui tươi và làm cho mọi người đến với con cũng cảm thấy bầu khí vui tươi, mặc dù lòng con tan nát. Ðó là thánh thiện hơn mọi sự ăn chay hãm mình. (ÐHV 539)
Ai cũng biết Ðức Gioan XXIII là một cụ già rất vui vẻ hài hước. Ðàng sau nụ cười tiếu lâm của cụ, người ta khám phá ra một kho tàng khôn ngoan, cương nghị của một nhà lãnh đạo lỗi lạc tài ba. Sau đây là vài mẫu chuyện nhỏ trong cuộc sống đơn sơ bình dị của ngài:
* Ðức Gioan XXIII với ông Bidault:
Lúc nước Pháp vừa được giải phóng khỏi gót giày xâm lược của Phátxít Ðức, Tướng De Gaulle lên nắm chính quyền và ông Bidault trở thành Thủ tướng của Cộng hoà Pháp quốc. Bấy giờ Ðức Piô XII bổ nhiệm Tổng Giám mục Roncalli là Sứ thần Tòa Thánh tại Paris, một nhiệm sở vô cùng khó khăn, phức tạp. Vị Tân Sứ thần vừa đến nhiệm sở, Tướng De Gaulle liền đưa sang một danh sách yêu cầu Tòa Thánh thay mấy chục Giám mục mà ông nghĩ là có cảm tình với cựu Thống chế Pétain. Ðức Cha Roncalli tiếp nhận danh sách và thinh lặng nghiên cứu, nghe ngóng một thời gian, cốt để kéo dài công việc. Mặc cho Thủ tướng Bidault nhiều lần thúc giục, ngài vẫn hứa hẹn trì hoãn...
Một hôm trong lúc nói chuyện với một số chính khách, Thủ tướng Bidault nổi giận phát ra một câu: "Cái con lợn Roncalli làm gì mà không chịu đổi các ông Giám mục cho tôi chớ?" Câu nói ấy lọt vào tai vị Sứ thần Tòa Thánh. Trong một buổi tiếp tân sau đó không lâu, trước mặt đông đảo quan khách ngoại giao, Thủ tướng Bidault tiến lại phía Sứ thần Roncalli đang uống rượu và trò chuyện thân mật với một số Ðại sứ. Sau đôi ba lời xã giao thăm hỏi, Thủ tướng vào đề ngay: "Sứ thần Roncalli đã tính xong việc thuyên chuyển mấy chục vị Giám mục ấy chưa? Sao mà chậm trễ thế?" Roncalli vui vẻ đáp: "Thưa Thủ tướng, ngài muốn con lợn khốn nạn Roncalli làm gì nào?"
Một năm sau, chính phủ De Gaulle đổ nhào, vấn đề trên đã được giải quyết tốt đẹp: Tòa Thánh chỉ thuyên chuyển hai Giám mục trên danh sách mấy chục vị theo chính phủ đòi hỏi.
* Ngồi một bên bà Ðại sứ ăn mặc thiếu đoan trang.
Trong một buổi dạ tiệc ở điện Elysé, Sứ thần Roncalli oái oăm thay lại được xếp ngồi cạnh một bà Ðại sứ ăn mặc rất hở hang. Mấy ông Ðại sứ quen thân với Sứ thần Roncalli cứ nhìn sang ngài suốt buổi tiệc, miệng cười túm tím ra chiều đắc ý lắm! Về phần cụ già Roncalli, ngài vẫn đơn sơ tự nhiên, chuyện trò với khách chung quanh cách vui vẻ.
Sau bữa tiệc, lúc mọi người ra về hối hả, mấy vị Ðại sứ hồi nãy quây quần Ðức Cha Roncalli và thân mật hỏi ngài: "Bữa tiệc vừa rồi, ngồi bên bà ấy, Ðức Cha có cảm thấy lúng túng không? Không! - Tôi cảm thấy sung sướng là đàng khác!
Họ lấy làm ngạc nhiên, không hiểu được ý ngài bèn hỏi tiếp:
- Tại sao mà sung sướng?
- Sao lại không sung sướng? các vị không thấy cả bàn tiệc ai cũng để ý nhìn tôi là một cụ già ngộ nghĩnh thay vì để ý đến bà Ðại sứ xinh đẹp hở hang kia đó sao?
* Với đôi hôn phối ở Pittsburg, Mỹ.
Sau khi Ðức Gioan XXIII qua đời, Ðức Hồng Y Wright đã thuật lại câu chuyện sau đây về con người vĩ đại vừa đơn sơ ấy:
"Trong thời gian làm Giám mục tại giáo phận Pittsburg, lần nọ, tôi được vào triều yết Ðức Thánh Cha Gioan XXIII. Vừa thấy tôi, Ðức Thánh Cha vui vẻ bắt tay và nói cách khôi hài: "Tên Ðức Cha thật rắc rối: viết là "Rit" mà đọc là "Ray"! Tiếp theo câu khôi hài dí dỏm ấy là những câu chuyện về vấn đề mục vụ trong giáo phận... Sau cùng, ngài hỏi chuyện thân mật:
- Ðức Cha có nhớ trong thành phố Pittsburg có con đường... này không?
- Thưa Ðức Thánh Cha có ạ!
- Ở số nhà... có một người giáo dân tên là... Ðức Cha có biết không?
- Thưa Ðức Thánh Cha con chịu thôi, nhưng lúc về con sẽ cố gắng đi hỏi.
- Tôi có được bức thơ của anh ta. Nó báo tin nó sắp cưới vợ và xin tôi ban phép lành. Tôi thấy địa chỉ của nó ở trong giáo phận của Ðức Cha, nên giữ lại cái thiệp chúc mừng này, định giao cho Ðức Cha để nhờ Ðức Cha trao lại cho nó.
- Thưa Ðức Thánh Cha, con xin làm theo ý Ðức Thánh Cha.
- À, nếu được, xin Ðức Cha gọi nó và vợ nó ở tỉnh... đến gặp Ðức Cha, tôi nhờ Ðức Cha trao quà cho hai chúng nó và nói là Ðức Thánh Cha chúc lành, cầu nguyện cho gia đình chúng nó luôn mãi hoà thuận thương yêu nhau, giữ vững hạnh phúc lâu dài...
- Thưa Ðức Thánh Cha, gọi anh ấy thì được chứ còn vợ anh ấy ở xa nơi con quá, tương tự như Roma đi Mátcova lận!
- Thế thì làm sao chúng quen biết nhau được! Lạ thật! Thôi, ít nữa là xin Ðức Cha gọi điện thoại cho chúng nó đòi chúng nó đến thử một lần xem sao. Chúng ta cùng mang lại hạnh phúc tươi vui cho một gia đình..."
Ðức Hồng Y Wright kết luận: "Câu chuyện ấy có tính cách khôi hài nhưng cũng làm cho tôi rất cảm động. Ðức Thánh Cha Gioan XXIII là tác giả của những công trình vĩ đại như việc triệu tập Công Ðồng Vatican II, nhưng cùng lúc, ngài cũng không quên mang niềm vui đến cho những kẻ hèn mọn nhất trong đám con cái thân yêu của ngài".
8. "Bên nước Ba Lan người ta không bao giờ khóc"
* Làm sao con hết buồn? Hãy cầu nguyện! Tại sao thế? Vì con gặp Chúa: Mađalêna tìm xác Chúa, hai môn đệ đi làng Êmau đã gặp Chúa và quên hết mọi ưu sầu (ÐHV 541).
* Càng được chung phần thống khổ của Ðức Kitô chừng nào, anh em hãy vui mừng! Ngõ hầu khi vinh quang của Ngài mặc khải ra, anh em cũng được vui mừng hớn hở." (1P. 5:13) (ÐHV 542).
Lúc giáo dân Ba Lan cùng đi với phái đoàn 50 Giám mục do Ðức Hồng Y trưởng Giáo Chủ Stefan Wyzynsky hướng dẫn đến chúc mừng Ðức Tân Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, nhiều người cảm động đến nỗi phát khóc vì nghĩ rằng ngài sẽ không bao giờ về lại giáo phận Cracovie thân yêu của ngài nữa.
Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã an ủi họ và nói một câu thật đáng cho chúng ta ghi nhớ: "Ở nước Ba Lan, người ta không bao giờ khóc".
9. Ông vua ca hát
* Con phải vui tươi luôn. Ðường hy vọng không thể chấp nhận lữ hành buồn phiền được, đường hy vọng đem lại vui tươi (ÐHV 535).
Người ta tặng biệt hiệu "ông vua ca hát" cho thánh Phanxicô Assisiô, vì ngài luôn vui tươi và sáng tác nhiều bài thơ khúc nhạc ca tụng Chúa. Năm nọ, suốt cả tuần thánh, ngày nào ngài cũng đọc và suy niệm bài Tin Mừng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cho các đồ đệ nghe. Ðến đêm Phục Sinh, lòng hân hoan quá đỗi, ngài dặn đồ đệ "Ðêm nay đừng tắt đèn, cứ để nó tiếp tục cháy, nó cũng phải hân hoan vì cuộc Phục Sinh của Chúa Kitô".
Cuộc đời ngài đầy dẫy những chuyện vui tươi. Tất cả đã được ghi chép trong cuốn sách "những bông hoa nhỏ" mà không biết bao thế hệ Kitô hữu đã thích thú đọc. Tinh thần vui tươi ấy được tóm gọn qua câu châm ngôn của Dòng ngài sáng lập: "Hãy sống nghèo khó, khiêm nhường vì tình yêu Chúa Kitô chịu đóng đinh và luôn ca hát niềm vui".
10. Vui cười trong đau khổ
* Ðừng buồn phiền, hãy có cái nhìn siêu nhiên và con sẽ thấy mọi sự dưới khía cạnh mới (ÐHV 533).
Là một nhà diễn thuyết thời danh đồng thời là một người có lòng bác ái cao độ, nên hôm nọ, vừa gặp một người nghèo khổ ăn mặc rách rưới, đầu gối lỡ loét, linh mục Taulère liền cho tiền và ân cần hỏi han:
- Chắc anh khổ lắm?
- Cám ơn cha. Khổ thì khổ nhưng con vẫn vui.
Thấy cha Taulère có vẻ ngạc nhiên, anh ta nói tiếp:
- Từ thuở còn nhỏ, con đã tin rằng, Chúa là Ðấng Toàn năng và là Ðấng yêu thương con; nếu con mắc bệnh như thế này chắc hẳn cũng không ngoài thánh ý của Ngài nên con vui mừng đón nhận. Nếu con khỏe mạnh, con sẽ cám ơn Chúa hết lòng. Nếu có thiếu thốn áo mặc, con cũng tự nhủ với mình: "Xưa trên Thập giá, Chúa đâu có áo che thân. Mình được như thế này thì cũng còn hơn Chúa nhiều lắm!... và giả như một con mắt con bị khoét, con cũng vẫn cứ vui cười với con mắt kia..."
11. Nụ cười trị giá 40 ngàn Mỹ kim
* Vui với người thương con. - Vui với người ghét con. - Vui lúc con hớn hở. - Vui lúc lòng con đau khổ tê tái. - Vui lúc mọi người theo con. - Vui lúc con cô đơn bị bỏ rơi. - Vui tươi và làm cho mọi người đến với con cũng cảm thấy bầu khí vui tươi, mặc dù lòng con tan nát. Ðó là thánh thiện hơn mọi sự ăn chay hãm mình (ÐHV 539).
Ide, một ngôi làng nhỏ bé ở nước Hòa Lan là quê hương của Hans Bergen. Anh ta có một khuôn mặt quá xí trai nên bị mọi người trong làng bỏ rơi, khinh rẻ. Quá buồn khổ, Hans Bergen tuy vẫn sống mà dường như đã chết từ lâu...
Thế rồi đến một hôm, chàng thanh niên cô độc ấy chết thực sự. Dân làng Ide cũng chẳng lưu ý gì đến cái chết ấy cả; thế nhưng sau đó mọi người đều ngạc nhiên khi đọc thấy trong di chúc của Hans Bergen: chàng có để lại một gia tài 40,000 Mỹ kim cho một em bé chẳng bà con thân thuộc gì với anh ta hết. Anne Martine là tên cô bé ấy.
Trong di chúc, Bergen nêu rõ lý do: "Tất cả các ông bà trong làng đã cau mày hay nhìn đi nơi khác khi gặp tôi. Nhưng một ngày kia, tôi gặp bé Anne, em đã trao tặng cho tôi một nụ cười khả ái. Ðó chính là nụ cười chân thành duy nhất tôi đã nhận được trong đời tôi".
(Còn tiếp)