Ký Sự Bên Đường Thiên Lý. Phần 4: Missouri - Texas - Louisiana.

Chủ nhật - 11/09/2011 10:02

-

-
Chúng tôi rời miền nam California, đi sâu vào trung tâm nước Mỹ, đến tiểu bang Missouri để dự Đại hội Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm tại Carthage. Hành trình của chúng tôi dài khoảng 2.600km, từ tiểu bang California xuyên qua các tiểu bang...
Ký Sự Bên Đường Thiên Lý. Phần 4: Missouri - Texas – Louisiana
 
MISSOURI

Chúng tôi rời miền nam California, đi sâu vào trung tâm nước Mỹ, đến tiểu bang Missouri để dự Đại hội Thánh Mẫu được tổ chức hàng năm tại Carthage. Hành trình của chúng tôi dài khoảng 2.600km, từ tiểu bang California xuyên qua các tiểu bang Nevada, Arizola, New Mexico, Texas, Oklahoma theo đường freeway 40, đường liên tiểu bang xuyên suốt đông tây nước Mỹ. Không có khái niệm lồi lõm, càng không biết ổ gà là gì. Xe bus chạy tốc độ trung bình 90km/h. Hai bên đường cỏ được cắt ngắn mịn màng, không đám cỏ hoang. Nếu ở Âu châu bạn thấy một màu trắng của tuyết trải dài trước mắt, thì ở đây là những thảm cỏ xanh mở rộng tầm nhìn đến hút mắt. Người nông dân tuân thủ luật pháp không dám để cỏ hoang, nếu không giữ được cỏ sạch sẽ, phần đất ấy sẽ được chia cho người khác. Xe chúng tôi dừng nghỉ đêm tại một hotel bên đường, vì luật không cho phép xe chạy liên tục quá 1000km. Không ai kiểm soát nhưng người dân tự giác tuân phục. Họ giữ luật vì luật bảo vệ sự sống cho họ, họ tâm sự với chúng tôi: “Ở Mỹ có hai cái sợ trong đời, một là sợ chết, hai là sợ luật!”
 
Trong góc độ hẹp là nhìn vào đoàn hành hương trên xe, chúng tôi đã cảm nhận được phần nào ý thức cộng đồng của người công giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ. Công bằng và bác ái rất rõ ràng:

- Ai đi hành hương cũng tôn trọng trật tự, ngồi đúng thứ tự đăng ký, xếp hàng lên xe xuống xe không ồn ào, chương trình giờ giấc rõ ràng, không ai sai phạm nội quy về thời giờ, giữ vệ sinh trên xe, trên đường phố. Tôn trọng người già, trẻ em, tôn trọng tự do cá nhân mỗi người. Việc thiêng liêng với Chúa không thiếu sót: đọc kinh sáng và tối, nguyện kinh Truyền Tin buổi trưa, làm giờ lòng thương xót lúc 3 giờ chiều.

- Trong khi tiêu tốn hàng ngàn đô-la cho một cuộc hành hương, họ vẫn nhớ tới người nghèo. Chính chúng tôi cũng là đối tượng được hưởng lòng bác ái của đoàn. Họ bao cho chúng tôi tiền vé, tiền ăn uống nghỉ trọ hotel, lại sẵn sàng giúp đỡ mọi sinh hoạt nhỏ nhặt nhưng tinh tế của xã hội văn minh, chia sẻ khẩu phần ăn uống tự túc đi đường. Chúng tôi rất cảm động khi thấy cha Phêrô Nguyễn Văn Tuyên, chính xứ Tam Biên, trưởng đoàn hành hương, kêu gọi mọi người thu gom từng vỏ chai nước trên xe để bán lấy tiền giúp người nghèo. Thầy Thuận, tu sĩ dòng Phanxicô khó khăn còn thu gom vỏ chai nước ở các lán hành hương và đã từng bán được hàng trăm đô-la giúp đỡ người nghèo. Cử chỉ bác ái, nếp sống tiết kiệm và thực dụng của mọi người khiến chúng tôi thật khâm phục.

Chiều 04/08/2011, chúng tôi đã tới Carthage. Carthage là thành phố ở Jasper County, Missouri. Dân số theo thống kê năm 2010 là 14.378 người. Tại đây có Đền Đức Mẹ thuộc đại học Ozarks từ năm 1941 – 1971, ngày nay đã trở thành Tỉnh Dòng Đồng Công. Hàng năm Tỉnh dòng tổ chức Đại Hội Thánh Mẫu, hàng chục ngàn người từ khắp nơi tụ về. Đại Hội Thánh Mẫu Carthage Missouri năm nay là Đại Hội lần thứ 34.

Đức Cha James V. Johnston, Giám mục giáo phận Springfield chủ sự lễ khai mạc trọng thể, có sự hiện diện của Đức Cha Tri Bửu Thiên, Giám mục giáo phận Cần Thơ. Khoảng 200 Linh mục Việt Nam và ước khoảng 50.000 người đã hội tụ nơi đây để tham dự ngày khai mạc Đại Hội. Ngày thứ ba, ngày rước kiệu tượng Đức Mẹ được coi là cao trào của Đại Hội, có thêm Đức tổng Giám mục Gregory Aymond, tổng giáo phận New Orleans và một giám Việt Nam là Đức cha Giuse Nguyễn Tấn Tước phó Giám mục giáo phận Phú Cường. Bốn giám mục cùng với 200 linh mục, đông đảo tu sĩ nam nữ và khoảng 70.000 giáo dân đã tham dự đoàn rước. Tượng Đức Mẹ ở đây là một trong bẩy pho tượng lấy từ ngành sồi Pha-ti-ma và do Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII làm phép năm 1962. Đoàn rước đi qua bốn đường phố khép lại thành hình ô bàn cờ và trở về lễ đài. Dọc đường có hệ thống loa nén treo trên các cột góc phố, Tiếng hát của liên ca đoàn trầm ấm, dìu dặt vang ca các bài hát về Mẹ, hoà hợp với đoàn hành hương vừa đi vừa lần hạt Mân côi. Vào đúng lúc bắt đầu rước thì trời mưa, mưa ào rất nhanh rồi tạnh hẳn, nhiều người khóc vì thấy khung cảnh cảm động: thiên thời – địa lợi – nhân hoà. Chính ông thị trưởng thành phố cũng bày tỏ niềm cảm phục trước tinh thần hy sinh của giáo dân, vì họ không ngại nắng mưa, chẳng quản đường xa về đây dự Đại hội với một tinh thần hiệp nhất, yêu thương rất tuyệt vời. Tượng Đức Mẹ tiến vào lễ đài trong tiếng pháo dòn giã, trong rừng cờ và tiếng vỗ tay. Cuộc rước kiệu kết thúc trong nghi thức thả bóng bay rực rỡ sắc màu giữa một khoảng không gian nhuộm thắm bóng chiều êm ả.
 
Thánh lễ đại trào luôn đan kết tiếng Việt Nam và tiếng Anh. Trên lễ đài dâng lễ đồng tế, nhiều lúc chúng tôi cảm tưởng như đang dâng lễ tại Việt Nam. Khung cảnh những người con Việt Nam có ngày hội tụ dưới bóng Mẹ thật đầm ấm và an vui. Họ về đây để cộng hưởng sức sống đức tin, để hoà giải với Thiên Chúa và anh em, để trau dồi thêm giáo lý. Những toà giải tội luôn đề rõ ngôn ngữ: Vietnamese (tiếng Việt Nam), hoặc only English (bằng tiếng Anh) để linh mục và giáo dân tự lựa chọn.

Vấn đề ngôn ngữ tiếng Việt cũng đang là một vấn đề lớn được phổ cập trong cộng đồng người Việt. Đi đâu chúng tôi cũng thấy thông báo ngày giờ đăng ký lớp học hè về Việt ngữ và giáo lý. Đây là một trong những sinh hoạt quan trọng của cộng đồng người Việt Nam để sống đức tin và giữ gìn bản sắc dân tộc.

Đại hội đã bế mạc, mọi người ra về trong niềm vui và ơn phúc. Vẫn những đoàn xe nối nhau, không một tiếng còi, không một tiếng huyên náo…

TIỂU BANG TEXAS

Chúng tôi lại theo đoàn hành hương khác đi thăm tiểu bang Texas. Đây là đoàn hành hương thuộc giáo xứ Các thánh Tử đạo Việt Nam, Houston, Texas. Vẫn những tình thân thiện, nghĩa cử công bằng bác ái và những chia sẻ thẳng thắn chân thành. Anh Nguyễn Văn Triệu trưởng đoàn hành hương đặt cho chúng tôi câu hỏi: Các cha sang bên Hoa Kỳ thấy nếp sống bên này thế nào?. Chúng tôi lần lượt đưa ra những nhận xét:

- Nhờ môi trường văn hoá xã hội, dân trí ở đây phát triển cao. Người nào cũng có xe hơi riêng và tự lái, ai cũng giao tiếp được bằng tiếng Anh. Người Việt Nam đi đâu cũng dễ hội nhập và phát triển.

- Ý thức nhân bản tốt, từ những hành vi nhỏ như get in line (xếp hàng), đi sâu vào nếp sống xã hội trở thành tôn trọng luật pháp. Việc chấp hành luật giao thông nghiêm ngặt là biểu hiện dễ thấy về ý thức trật tự xã hội: không gây lộn, gian dối. Việc giữ sạch rác mọi nơi mọi lúc, môi trường thoáng đãng, tạo tiền đề cho tính tình cởi mở thân ái dễ giúp đỡ mọi người.

- Người công giáo Việt Nam giữ đức tin tinh ròng trong Hội thánh công giáo, luôn mến yêu và vâng phục bản quyền giáo hội địa phương, vâng phục Đức giáo hoàng. Cộng đồng người Việt dễ quy tụ về bên nhau, riêng người công giáo còn có tiếng nói chung là yêu thương. Trong một thế giới văn minh vật chất dễ rơi vào hưởng thụ và ăn chơi, người công giáo tìm thấy giá trị Nước Trời để vượt lên tìm hạnh phúc thanh cao. Đó là hạnh phúc thật.

Xe chúng tôi đã tới Sherman thuộc thành phố Dallas. Đoàn hành hương bùi ngùi kể lại cho chúng tôi nghe biến cố đau thương cách đây vừa tròn 3 năm, ngày 08/08/2008, trên một chuyến xe bus chở bốn giáo xứ Các thánh Tử đạo Việt Nam, Lộ Đức, La Vang và Đức Kitô Ngôi Lời Nhập Thể đi hành hương Đại hội Thánh Mẫu Missouri, trên freeway điểm exit 58, xe bị lật nghiêng làm 17 người chết và rất nhiều người trọng thương. Giáo xứ Các thánh Tử đạo Việt Nam còn nhớ mãi hình ảnh bi thương năm linh cữu cùng lúc quàn tại nhà thờ trong thánh lễ an tang này.

Nhà thơ Xuân Ly Băng đã cảm thán trong những vần thơ:
 
Thưa Mẹ,
Con chưa một lần đi Mỹ,
Chỉ biết đất nước ấy qua bản đồ thế giới,
Qua hình ảnh báo chí và mạng lưới thông tin.
Nhưng lạy Mẹ, hôm nay một phần đất Mỹ
Đã đánh động trái tim con.
Sherman, ngày thứ sáu…
Con cái Mẹ đã ra đi trong một tai nạn thảm khốc đến kinh hoàng.
Họ đi đâu?
Họ đến với Mẹ Missouri.
Con biết nói gì với Chúa? Con biết thưa gì cùng Mẹ ?
Khi chiếc xe định mệnh đã nuốt chửng đoàn con.
Thân xác nát tan, hết còn là chi thể.
Bao nhiêu người chết? Bao nhiêu kẻ trọng thương?
Giập gãy và máu me lênh láng.
Họ là ai? Là con cái Mẹ.
Trong một hành trình lịch sử
Họ đang tìm về với Mẹ, Mẹ ơi !
Con hỏi Mẹ: Mẹ ở đâu?
Trong phút giờ vô cùng đau đớn của đoàn con Mẹ, Mẹ ơi !

Thoạt nghe như mang dáng dấp của lời ta thán, nhưng đặt mình trong bối cảnh đau thương, ta hiểu tác giả đã nói thay tiếng nấc nghẹn ngào của bao gia đình thưa với Mẹ, như Chúa Giêsu đã thưa với Chúa Cha trên cây Thánh Giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?”(Mt 27,26).

Chúng tôi cùng đoàn hành hương đọc kinh trầm lắng, cầu cho linh hồn các nạn nhân. Những cây Thánh giá cắm vội bên đường vẫn còn đấy, đau thương và hy vọng hoà quyện. Làn giao thông như dòng chảy cuộc đời, đoàn xe vẫn tiến lên, mảnh đất đau thương lùi dần về phía sau … Xe chúng tôi dừng tại sân Nhà thờ giáo xứ Các Thánh Tử đạo Việt Nam. Thật là linh thiêng vì ngày mai chúng tôi được đồng tế với cha Giuse Vũ Thành, linh mục chính xứ, vào đúng ngày giỗ mãn tang của các nạn nhân: 08/08/2008 - 2011. Hình ảnh năm linh cữu một lúc tại nhà thờ này lại hiện lên trong tâm trí chúng tôi.

Linh diệu nữa là chúng tôi được đặt chân lên mảnh đất mà những ngày này, từ 07 – 09/08/2011 Đức Hồng Y Carlos Amigo Vallejo, nguyên Tổng Giám mục Seviglia, đặc sứ của Đức Giáo Hoàng đang chủ sự các lễ nghi bế mạc Năm thánh 500 năm thành lập các giáo phận đầu tiên tại châu Mỹ Latinh. Nhân dịp này, Đức Thánh Cha Benedictine XVI đã gửi văn thư chúc mừng châu Mỹ Latinh và khẳng định cần nhiệt tâm tiếp tục công tác rao truyền Tin Mừng bằng cách khiến cho hoa trái đức tin và việc tông đồ rạng ngời lên.

Thời gian trôi vào dĩ vãng. Những nạn nhân chôn vùi trong lòng đất. Tất cả tưởng như rơi vào quên lãng. Nhưng chính đó là những yếu tố làm nên lịch sử 500 năm thành lập của châu Mỹ Latinh. Đền Các thánh Tử đạo Việt Nam nhắc nhớ lời của Tertuliano: “Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh ra kẻ có đạo” và những nạn nhân hôm nay là hạt lúa mì rơi xuống đất, có chết đi mới trổ sinh hoa trái.

Lịch sử còn ghi nhận sự kiện: Trong khi tìm kiếm các khu vực dân cư của các bộ lạc da đỏ Mỹ, năm 1519, các người Châu Âu thám hiểm đầu tiên đã đến Texas. Giai đoạn 1519-1848, sáu quốc gia: Tây Ban Nha, Pháp, Mexico, Cộng hòa Texas, Hoa Kỳ đã tuyên bố chủ quyền tất cả hoặc một phần của tiểu bang Texas. Năm 1834, đã có hơn 30.000 người Anh sống ở Texas. Texas đã tham gia Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1845, trở thành tiểu bang thứ 28. Nền kinh tế của Texas tiếp tục phát triển nhanh chóng, từ năm 1994 trở thành tiểu bang lớn thứ hai về dân số, với một nền kinh tế rất đa dạng, và là một cơ sở phát triển công nghệ cao. Về mặt địa lý, tiểu bang Texas là một trong những tiểu bang rộng nhất nước Mỹ.
 
Giáo xứ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam thuộc về Houston, là một trong những thành phố của Texas. Vì gần biển nên cha xứ Giuse Vũ Thành, người đồng hương Phát Diệm, gốc quê hương Văn Hải đã dẫn chúng tôi xem hết mọi công trình trong khuôn viên nhà thờ. Một lần nữa, chúng tôi ghi nhận thiết kế thực dụng ở Mỹ, rất khoa học và quy mô, nhưng cũng vui mừng được nhìn ngắm những pho tượng đá với đường nét điêu khắc nghệ thuật 100% Việt Nam ! Cha xứ còn chiêu đãi chúng tôi và hai soeurs Têrêsa Hoàng Thị Lan, Maria Nguyễn Thị Thuý (thuộc dòng Mến Thánh Giá Phát Diệm du học ở Houston từ hai năm nay), tại nhà hàng biển, nơi đây có loại tôm mang tên Lobster, càng cái của nó to đến nỗi mỗi soeur chỉ ăn một càng là đủ no !

TIỂU BANG LOUISIANA

Chúng tôi xuôi đường đi thăm thành phố New Orleans thuộc tiểu bang Louisiana. Một cây cầu gọi là Causeway Bridge dài 24miles (38,6 km) dài nhất nước Mỹ vượt qua mọi địa hình đầm lầy, ao trũng, bãi cỏ, sông hồ... nối Houston với New Orleans. Chúng tôi chăm chú theo dõi thành phố New Orleans, một thành phố thấp hơn mực nước biển, và là nạn nhân của cơn bão Katrina năm 2005. Đây là một trong năm cơn bão gây thiệt hại lớn nhất cho nước Mỹ. Bão lụt tàn phá nghiêm trọng dọc theo bờ biển vùng Vịnh từ trung Florida đến Texas làm 1.836 người chết, phần lớn là những nạn nhân tại New Orleans, Louisiana, gây tổn thất 81 tỉ đô-la. Tác giả Trung Chính, trong lời tựa của tác phẩm “Katrina gió đã đổi chiều” đã đưa ra nhận xét:

“Cơn bão Katrina là một thiên tai do trời làm ra và đổ vào phía bắc vịnh Mê-hi-cô, lãnh thổ phía nam của các tiểu bang Louisiana, Mississipi và Alabama và đã gây thiệt hại mà cho đến nay, một năm sau, sự hàn gắn vẫn coi như mới mon men khởi đầu”.

Cũng chính tác giả đã đưa ra nhận xét của một người được coi là phản ánh chung tình trạng khi đó:

“Cái gì dính vào người tôi thì nó còn nguyên vẹn, cái gì không dính vào thì nó bay mất hết ! Bây giờ tôi chỉ có hai bàn tay trắng!”

Một bài thơ cảm thán như một hoài cảm làm hiện lên những hình ảnh dọc theo cơn bão:
 
Không còn nhìn thấy Ka-tri
Không còn sống mãi những gì đau thương.
Đau thương trên khắp nẻo đường
Khắp nơi thành thị, phố phường tan hoang.
Muôn ngàn người phải lang thang,
Giờ đây kiếp sống phũ phàng khó khăn.
Cơ quan từ thiện viếng thăm,
Vơi đi một chút băn khoăn cõi lòng.
Mình buồn số phận long đong,
Bao giờ mới trả cho xong nợ nần.
Khi xưa ngày tháng ân cần
Gia đình khuya sớm có phần an vui.
Ai ngờ bão đến lại xui,
Than ôi ! Số kiếp ngậm ngùi đắng cay.
Nỗi niềm tâm sự ai hay,
Hai bàn tay trắng, đắng cay giữa trời.
Van xin Thượng Đế nhận lời,
Ngày mai lại thấy cuộc đời an vui.
 
Lm Phan Đức Đổng
Chính xứ Các Thánh Tử đạo Việt Nam Biloxi, Mississipi.
 

Superdome trong cơn bão lụt Katrina
 
Hàng chục ngàn người đã phải vào trú ngụ tại Louisiana Superdome, một dome tròn lớn nhất thế giới. Bên trong là cả một sân vận động, sân này đã từng tổ chức giải bóng đá chuyên nghiệp vào năm 1975.

Tác giả Vương Kỳ Sơn trong bài viết: Viễn tượng Phục sinh New Orleans sau cơn bão Katrina đã kể lại:

“Tôi đã đến một địa điểm đê bị vỡ thuộc vùng Lake Front. Đó là khu gần đại học New Orleans, nơi có con sông nhỏ sát hồ Pontchartrain ăn sâu vào thành phố. Một cây cầu bác trên con sông nhỏ này tên là London North Bridge. Rất nhiều căn nhà có nóc chỉ cao bằng bờ đê. Nghĩa là nền nhà thấp hơn mặt đê khoảng 20 feet (6m) và khi đê bị vỡ thì nước ùa vào và những căn nhà này bị chìm ngập dưới nước.”

Bài viết kết thúc bằng một hình ảnh cảm động:

“Ở trên đường Paris Road, khoảng biên giới giữa hai quận, người ta đã lượm hay lấy từ đâu đó một cây Thánh Giá thật lớn có tượng Chúa Giêsu bị đóng đinh để dựng trên bùng binh của con đường, với hàng chữ: “keep the faith. We will rebuild” (Hãy giữ vững niềm tin. Chúng ta sẽ xây dựng lại)

Sau sáu năm, thành phố đã hồi sinh, không còn dấu vết của cơn bão lụt tàn phá. Cảnh thanh bình đã trở lại. Quyết tâm thư của hàng chữ trên đã được thực hiện !
 
“Hồng ân Thiên Chúa bao la,
Muôn đời con sẽ ngợi ca danh Người” (Tv 88, 2).

Không phải là tản bộ, nhưng là vòng xe quanh khu phố N. Lemans St. New Orleans LA, chúng tôi đi vào một trong những khu vực của NASA, cơ quan trung tâm nghiên cứu vũ trụ của Mỹ. Tại đây, chúng tôi được tận mắt nhìn xem con tàu vũ trụ Apollo 11. Sau khi đổ bộ thành công phi hành đoàn lên mặt trăng năm 1969, con tàu vũ trụ trở về trái đất. Thân tàu khổng lồ được đặt tại đây, còn đầu tàu được đưa về Đài Thiên văn Griffith. Cả một thành tựu khoa học hiện ra, một sự kiện vang lừng thế giới bỗng như vang dội lại trong mỗi chúng tôi. Tôi ước ao được trèo lên con tàu, nhưng tất cả được đặt sau hàng rào thưa. Chỉ có thể lùi ra xa, nâng ống kính lên cao để chụp toàn thân con tàu mà không ai có thể động được đến thân tàu. Dù sao chúng tôi cũng ước lượng vội vàng thân tàu phải to bằng một nhà thờ giáo họ, hoặc nếu bạn ở “nhà ống” thì chiều ngang bằng hai suất đất (chạy sâu bên trong có ao có vườn) vì đường kính của phi thuyền là 8,7m chiều dài là 56,1m!
 
Trung tâm NASA lớn nhất nằm ở Texas, chúng tôi thật may mắn được chính cha Giuse Vũ Thành đưa đến tận nơi và được ông Trịnh Tiến Tịnh là kỹ sư thiết kế thiết bị vận hành tàu vũ trụ dẫn đi xem chi tiết.

Tiền thân của Nasa là “Hàng không và Vũ trụ Quốc gia” đã được thành lập ngày 01 tháng 10 năm 1958 để cung cấp các dữ liệu nghiên cứu các chuyến bay trong và ngoài bầu khí quyển của Trái đất và cho các mục đích khác. Dự án đầu tiên mang tên Mercury đưa người Mỹ đầu tiên vào quỹ đạo trái đất trong tàu vũ trụ có người lái, và để điều tra khả năng của con người hoạt động trong không gian.

Từ đó nó được mang tên là “Trung tâm Tàu vũ trụ có người lái”, được xây dựng vào năm 1961 trên đất hiến tặng của trường Đại học Rice. Ngày 19 tháng hai năm 1973, trung tâm đã được đổi tên là Johnson, tên danh dự của Tổng thống Mỹ quê hương Texas là Lyndon B. Johnson.

Thành tựu khoa học lớn nhất khi đó là sự kiện tàu vũ trụ Apollo 11 đã đưa con người lên Mặt trăng và trở về mặt đất an toàn, mang theo gần 400 kg mẫu đất đá Mặt trăng. Từ đây là những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực khoa học. Bốn tàu con thoi không gian của NASA là phi thuyền đầu tiên có khả năng thường xuyên bay vào quỹ đạo như tên lửa và sau đó trở về Trái đất như tàu lượn. Những con tàu này được sử dụng cho nghiên cứu khoa học và các ứng dụng không gian, chẳng hạn như việc triển khai và sửa chữa các vệ tinh. Từ đầu năm 1994 đến 1998, bảy phi hành gia Mỹ đã trải qua gần 1000 ngày sống trong quỹ đạo với các phi hành gia Nga trên trạm không gian vũ trụ. Trạm không gian vũ trụ Mỹ ráp nối với trạm không gian vũ trụ Nga tạo nên trạm vũ trụ quốc tế và bắt đầu một kỷ nguyên hợp tác và nghiên cứu, hiếm thấy trong lịch sử nhân loại.

Trung tâm vũ trụ Johnson bao gồm 100 tòa nhà được xây dựng trên 1.620 acres (656 ha) tại Houston. Nơi đây có 14.000 nhân viên làm việc, trong đó có khoảng 400 nhân viên Việt Nam.

Chúng tôi lên tàu điện đi vòng trong khu trung tâm. Tàu dừng ở 3 trạm, trạm một để nghe hướng dẫn và kiểm tra số người đi. Trạm hai là một đỉnh cao của trí tuệ nhân loại. Nơi đây đã đặt mô hình của những con tàu vũ trụ do các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ và Nga. Họ đang đào tạo phi hành gia hoặc cùng hợp tác quốc tế nghiên cứu các trạm không gian vũ trụ. Họ đang thử nghiệm những phát minh mới nhất như xe chạy trên mặt trăng v.v… Trạm ba là thân tàu Apollo từ Apollo 1 đến Apollo 17. Tất cả đều khổng lồ, bạn sẽ có cảm giác như ở sân bay và đang ngước nhìn cả một đoàn máy bay đang xếp nối nhau thành một hàng thẳng.

Ước vọng của chúng tôi leo lên tàu vũ trụ ở New Orleans không được thực hiện thì hôm nay đã trở nên hiện thực ở Texas. Lần đầu tiên, chúng tôi được vào buồng lái của con tàu vũ trụ, được quan sát hệ thống điều khiển con tàu cũng như các thiết bị vũ trụ, kể cả những sinh hoạt từ ăn uống, ngủ nghỉ, đến cả những phòng tắm, phòng vệ sinh dành cho các phi hành gia trong trạng thái không trọng lực. Tất cả đều đặc biệt và đòi hỏi độ chính xác tuyệt đối của khoa học kỹ thuật. Các phi hành gia phải ngủ trong một túi lớn cột chặt vào thân tàu, buồng tắm tương tự như một túi treo lớn và nước phải đẩy từ một ống van. Thức ăn là những tinh chất cực nhỏ như những phên thuốc hoặc ở thể dung dịch. Nói tóm lại là một quy tắc hết sức nghiệt ngã đòi hỏi các phi hành gia một khổ luyện công phu.

Một khu vườn trải rộng ở giữa Trung tâm vũ trụ Johnson, thoạt nhìn chỉ đơn giản là vườn trồng cây xanh, nhưng ở mỗi gốc cây dựng lên một bia đá tưởng niệm những phi hành gia đã hy sinh vì sự nghiệp khoa học. Thành quả của khoa học kỹ thuật phải trả giá đắt bằng những hy sinh lớn lao, từ sức lao động tận lực của công nhân kỹ thuật, tới chất xám của các kỹ sư thiết kế, các khoa học gia và giá máu hy sinh của các phi hành gia. Trung tâm NASA đã tặng toàn thể nhân viên một huy hiệu mang dòng chữ “10 MILLION HOURS WITHOUT A LOST WORD” (Mười triệu giờ không lãng phí) đủ cho thấy cường độ làm việc của trung tâm. Đặc biệt trong huy chương có ghi dòng chữ: EXCELLENCE ACHIEVED BY THOSE WHO BELIEVED “Thành công vĩ đại chỉ dành cho người có niềm tin” Niềm tin và ý chí được đề cao ! Mỗi bia đá khắc tên hôm nay cũng là một bằng chứng về giá máu mà các phi hành gia đã phải trả cho các thành tựu khoa học hôm nay. Trung tâm Nasa không thể quên ngày 28 tháng 1 năm 1986, tàu con thoi Challenger đã bị nổ tung sau khi phóng vào không gian được 73 giây, dẫn đến cái chết của bảy thành viên trong phi hành đoàn. Tàu vũ trụ tan rã trên Đại Tây Dương, miền trung bờ biển Florida lúc 11:39. Thảm hoạ cũng đã xảy ra với phi thuyền con thoi Columbia ngày 01/02/2003 vào đúng khi hành trình chuyến bay đã về tới tầng khí quyển trái đất, sắp kêt thúc hành trình. Bảy thành viên trong phi hành đoàn đã thiệt mạng. Tuy nhiên nếu so sánh trong 135 chuyến bay của phi thuyền, chỉ có hai lần thất bại thì xác suất này không phải là lớn.

Hiện nay NASA có các trung tâm ở Florida, Mississippi, Alabama, và Houston. Trung tâm vũ trụ Johnson đã kết thúc chương trình không gian 50 năm của Mỹ khi phi thuyền mang tên Atlantis hoàn thành chuyến bay vào ngày 21/07/2011 vừa qua. Kết thúc này không có nghĩa là “khép lại” nhưng là để “mở ra” một chương trình mới: khám phá những thế giới khác trong hệ thống mặt trời và hiểu rộng thêm về vũ trụ của chúng ta. Trung tâm Nasa bắt đầu thử nghiệm những thiết bị nghiên cứu cho dự án năm 2034 bay lên Sao Hỏa. Đó sẽ là những đỉnh cao thành tựu khoa học và là kết quả sự hợp tác quốc tế giữa các nước Mỹ, Nga, Trung Quốc, và các nước khác.

Tác giả: Lm. Phêrô Nguyễn Hồng Phúc

Nguồn tin: Vietcatholicnews

 Tags: tiểu bang

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập835
  • Hôm nay92,738
  • Tháng hiện tại1,005,002
  • Tổng lượt truy cập57,106,639
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây