TÌM HIỂU SÁCH GIÁO LÝ HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Phần I: TUYÊN XƯNG ĐỨC TIN
Bài 38. HỘI THÁNH CÔNG GIÁO
Hội Thánh “là công giáo vì Đức Kitô hiện diện trong Hội Thánh”. Sách GLHTCG giải thích như thế về từ “công giáo”, có nghĩa là“phổ quát” (số 830). Vì Đức Kitô đã sống lại và đang hiển trị cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, vì Người đã hứa ở với các môn đệ mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28,20), nên Hội Thánh luôn luôn là công giáo. Đức Kitô là sự viên mãn, ánh sáng, sự thật và sự sống. Chỉ một mình Người là Đấng bao trùm mọi sự. Mà vì Người hiện diện trong Hội Thánh nên Hội Thánh cũng bao trùm tất cả (công giáo), dù khi chỉ có một nhóm nhỏ tín hữu quy tụ.
Điều này trở thành hiển nhiên nơi bí tích Thánh Thể vì Thánh Thể “chứa đựng mọi phúc lành thiêng liêng của Hội Thánh, nghĩa là chính Đức Kitô” (số 1324). Nơi bí tích Thánh Thể, Đức Kitô hiện diện với Mình Máu Người, với thần tính và nhân tính, với tình yêu hiến dâng trên Thập giá cho mọi người ở mọi thời (số 1374).
Một lý do khác làm cho Hội Thánh được gọi là công giáo, đó là Đức Kitô đã sai Hội Thánh đến với mọi người thuộc mọi dân nước: “Hãy đi và làm cho mọi dân tộc thành môn đệ” (Mt 28,19). Do bài sai của Đức Kitô, Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo. Truyền giáo là đòi hỏi phát xuất từ đặc tính công giáo của Hội Thánh (849). Ngày nay nhiều khi từ “truyền giáo” bị hiểu lầm và bị phê phán. Phải chăng các tôn giáo khác không phải là đường dẫn đến Thiên Chúa? Tại sao Hội Thánh công giáo lại là tôn giáo duy nhất đưa con ngườiđến ơn cứu độ? Nếu chúng ta nhìn Hội Thánh trong tương quan với Đức Kitô thì câu hỏi lập tức xuất hiện: Chẳng phải chỉ có Đức Kitô mới là Con Đường sao? Và không có ơn cứu độ nào khác ngoài Đức Kitô sao? Chúng ta phải thường xuyên quay về với lời tuyên xưng nguyên thủy: “Dưới bầu trời này”, ngoài Danh Chúa Giêsu,“không có danh nào khác được ban cho, để nhờ đó con người được cứu độ” (Cv 4,12).
Chính vì thế chúng ta tin rằng tất cả mọi người đều được kêu gọi đến sự hiệp thông với Đức Kitô (số 836), và Hội Thánh là “bí tích phổ quát của ơn cứu độ” (số 849). Các giáo phụ dùng hình ảnh cụ thể để diễn tả điều này: Hội Thánh là con tàu ông Nôê. Chỉ trong và qua Hội Thánh, con người mới được cứu thoát (số 845). Hình ảnh này trước hết là lời cảnh báo cho những ai ở trong Hội Thánh: nếu bạn nhảy lên con thuyền Hội Thánh với ý nghĩ rằng có thể tự cứu mình mà không cần đến Đức Kitô, bạn sẽ chìm! Còn “những người không biết đến Tin Mừng của Đức Kitô và Hội Thánh Người, mà không do lỗi của họ, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa… thì họ có thể đạt đến ơn cứu độ muôn đời” (số 847).
Đã thế thì tại sao còn phải truyền giáo? Thưa là vì Đức Kitô và vì phần ích của mọi người. Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý (1Tim 2,4). Đức Kitô và Tin Mừng của Người là chân lý cứu độ. Vì thế người Kitô hữu tha thiết giới thiệu Đức Kitô cho mọi người: “Tình yêu Chúa Kitô thúc bách tôi” (2Cor 5,14).
Bài 39. HỘI THÁNH TÔNG TRUYỀN
Đặc tính thứ tư của Hội Thánh là tông truyền. Dịch sát nghĩa là “được sai đi”. Vào buổi chiều Phục Sinh, Chúa nói với các môn đệ: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” (Ga 20,21). Qua các môn đệ của Người, Đấng Phục Sinh tiếp tục hoạt động cho tới khi Người lại đến (GLHTCG số 669). Do đó, cũng như việc truyền giáo, “làm tông đồ” là đòi hỏi thuộc về bản chất của Hội Thánh. Theo Sắc lệnh về Tông Đồ Giáo Dân, việc tông đồ là tất cả những hoạt động nào hướng tới mục đích của Hội Thánh: trải rộng vương quốc Đức Kitô trên toàn thế giới để mọi người được chia sẻ ơn cứu độ (số 863).
Những người đầu tiên được Chúa Giêsu sai đi là các môn đệ của Người, nhóm Mười Hai, cũng được gọi là Tông Đồ (những người được sai đi). Hội Thánh đã và mãi mãi được xây trên nền tảng các tông đồ (Eph 2,20). Hội Thánh là Hội Thánh tông truyền vì Hội Thánh vẫn tiếp tục dựa trên chứng tá và giáo huấn của các tông đồ (số 857). Lúc khởi đầu, các tông đồ truyền lại những gì các ngài đã nghe và trải nghiệm về Đức Kitô, cũng như những gì Chúa Thánh Thần đã soi sáng cho các ngài hiểu. Do đó, những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu được truyền lại cho chúng ta chủ yếu là qua các tông đồ (số 126). Đời sống các ngài là tấm gương phản chiếu Chúa Giêsu, Vị Thầy đáng mến của các ngài. Các ngài cũng lập ra những cơ chế nhằm thúc đẩy sứ vụ truyền giáo, chẳng hạn lập ra các vị trưởng lão. Cuối cùng, dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, đích thân các ngài hoặc các đồ đệ của các ngài viết ra sứ điệp cứu độ của Chúa Giêsu (số 76, 106, 126).
Toàn bộ những gì các tông đồ truyền lại, bằng truyền khẩu hoặc thành văn, được gọi là “truyền thống tông đồ” (số 75). Chỉ nhờ truyền thống đó mà thôi, chúng ta mới hiểu được những lời nói và việc làm của Chúa Giêsu. Do đó truyền thống tông đồ là thước đo cho sự trung thành của Hội Thánh với nguồn gốc của mình. Mọi nỗ lực canh tân đích thực trong Hội Thánh phải nhớ lại và tiếp nối truyền thống này.
Hội Thánh còn là tông truyền theo một nghĩa khác: “Để Tin Mừng được giữ gìn toàn vẹn và sống động mãi trong Hội Thánh, các Tông Đồ đã để lại những người kế vị là các giám mục và trao lại cho họ quyền giáo huấn của các ngài” (số 77, 860). Tất cả những gì các Tông Đồ đã loan báo, phải được tiếp tục cho tới khi Chúa ngự đến. Do đó, sứ vụ tông đồ là thành tố thiết yếu trong đời sống Hội Thánh. Trong nhiệm vụ của các Tông Đồ, dĩ nhiên có một khía cạnh không thể lưu truyền được: đó là các ngài là những chứng nhân đặc tuyển về sự phục sinh của Chúa, và là những nền móng của Hội Thánh. Tuy nhiên sứ vụ mà Đức Kitô đã ủy thác cho các Tông Đồ sẽ tồn tại mãi cho đến tận thế. Các giám mục là những người kế vị các Tông Đồ để chăm sóc đoàn chiên của Đức Kitô (số 861), sự kiện ấy nói lên một lý do khác để Hội Thánh được gọi là tông truyền.