Sứ điệp cho Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 59, 01/01/2026: Chúa Kitô, Bình an của thế giới

Thứ sáu - 19/12/2025 18:19
Trong Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Hòa bình 2026, được công bố vào ngày 18/12, Đức Lêô XIV tố giác việc tái quân sự hóa đang diễn ra, các chiến dịch lan truyền nhận thức về mối đe dọa, cộng với nguy cơ ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào chiến tranh, và trong toàn cảnh hiện đại, …
leo hoa binh the gioi
 
Trong Sứ điệp nhân Ngày Thế giới Hòa bình 2026, được công bố vào ngày 18/12, Đức Lêô XIV tố giác việc tái quân sự hóa đang diễn ra, các chiến dịch lan truyền nhận thức về mối đe dọa, cộng với nguy cơ ứng dụng trí tuệ nhân tạo vào chiến tranh, và trong toàn cảnh hiện đại, cả “việc đưa những lời lẽ đức tin vào cuộc đấu tranh chính trị, ca ngợi chủ nghĩa dân tộc và biện minh về mặt tôn giáo cho bạo lực và xung đột vũ trang đang ngày càng trở nên phổ biến”. Ngài kêu gọi “các tín hữu phải tích cực bác bỏ, trước hết qua cuộc sống của họ, những hình thức báng bổ làm lu mờ Danh Thánh của Thiên Chúa”. Bất chấp “vòng xoáy hủy diệt chưa từng có này”, đối với Đức Thánh Cha, hòa bình không phải là một điều không tưởng, đó là một sự hiện diện, Chúa Kitô, sự bình an của chúng ta. Ngài khuyến khích nhìn thấy và tin vào ánh sáng của Chúa Kitô, để không chìm vào bóng tối hay thái độ định mệnh chủ nghĩa, nhưng để hơi ấm của Người có thể tỏa sáng.

Dưới đây là toàn văn Sứ điệp của Đức Thánh Cha:
 
Bình an cho tất cả anh chị em
Hướng tới một nền hòa bình không vũ trang và có sức giải giới

“Bình an cho anh chị em!”

Lời chào cổ xưa này, vẫn được sử dụng ngày nay trong nhiều nền văn hóa, đã lấy lại toàn bộ sức mạnh của nó vào buổi tối Phục Sinh trên môi của Chúa Giêsu phục sinh. “Bình an cho anh em” (Ga 20, 19. 21) là Lời của Người vốn không chỉ mong muốn, mà còn thực hiện sự thay đổi dứt khoát trong người đón nhận nó và, do đó, trong toàn bộ thực tại. Đó là lý do tại sao những người kế vị các Tông đồ cất tiếng nói, mỗi ngày và trên khắp thế giới, cho cuộc cách mạng thầm lặng nhất: “Bình an cho anh em!” Từ buổi tối tôi được bầu làm Giám mục Roma, tôi đã muốn ghi lời chào của mình vào lời loan báo đồng thanh này. Và tôi muốn nhắc lại điều đó: đây là sự bình an của Chúa Kitô phục sinh, một sự bình an không vũ trang và và một sự bình an có sức giải giới, khiêm nhường và kiên trì. Nó đến từ Thiên Chúa, vị Thiên Chúa yêu thương tất cả chúng ta vô điều kiện. [1]

Bình An của Chúa Kitô Phục Sinh

Chính vị Mục Tử Nhân Lành đã chiến thắng sự chết và phá đổ những bức tường ngăn cách giữa con người (x. Êp 2, 14); chính Người hy sinh mạng sống mình vì đoàn chiên và có nhiều chiên ở ngoài chuồng (x. Ga 10, 11.16): Chúa Kitô, bình an của chúng ta. Sự hiện diện của Người, hy lễ của Người, chiến thắng của Người tỏa sáng trong sự kiên trì của nhiều chứng nhân, nhờ đó công trình của Thiên Chúa tiếp tục trong thế giới, càng trở nên rõ ràng và rạng rỡ hơn trong bóng tối của thời đại.

Quả thế, sự tương phản giữa bóng tối và ánh sáng không chỉ là một hình ảnh Thánh Kinh để mô tả sự đau khổ sinh ra một thế giới mới: nó là một kinh nghiệm thấm nhuần và biến đổi chúng ta khi đối mặt với những thử thách mà chúng ta gặp phải, trong những hoàn cảnh lịch sử mà chúng ta đang sống. Vâng, nhìn thấy ánh sáng và tin vào nó là điều cần thiết để không bị chìm đắm trong bóng tối. Đây là một đòi hỏi mà các môn đệ của Chúa Giêsu được kêu gọi sống một cách độc đáo và ưu tiên, nhưng thành công, theo nhiều cách, trong việc tìm đường vào trái tim của mỗi con người. Hòa bình tồn tại; nó mong muốn ngự trị trong chúng ta, nó có sức mạnh dịu dàng để soi sáng và mở rộng tâm trí, nó chống lại bạo lực và vượt lên trên bạo lực. Hòa bình mang hơi thở của sự vĩnh hằng: trong khi chúng ta kêu lên “đủ rồi” với cái ác, chúng ta lại thì thầm “mãi mãi” với hòa bình. Chính trong viễn cảnh này mà Đấng Phục Sinh đã dẫn chúng ta vào. Chính trong trực giác này mà những người kiến ​​tạo hòa bình sống, những người, trong bi kịch của cái mà Đức Giáo hoàng Phanxicô gọi là “cuộc chiến tranh thế giới thứ ba từng phần”, vẫn chống lại sự lây lan của bóng tối, như những người lính canh trong đêm.

Điều ngược lại, tức là quên đi ánh sáng, thật không may là điều đó có thể: khi đó chúng ta sẽ mất hết tính hiện thực, nhượng bộ trước một sự miêu tả phiến diện và méo mó về thế giới, dưới dấu hiệu của bóng tối và nỗi sợ hãi. Có nhiều người ngày nay gọi những câu chuyện thiếu hy vọng, mù quáng trước vẻ đẹp của người khác, quên đi ân sủng của Thiên Chúa luôn hoạt động trong trái tim con người, dù họ có bị tổn thương bởi tội lỗi, là hiện thực. Thánh Augustinô khuyên các Kitô hữu hãy thắt chặt một tình bạn bất khả phân ly với hòa bình, để bằng cách giữ nó sâu trong tâm trí, họ có thể tỏa ra hơi ấm rạng rỡ của nó xung quanh mình. Nói với cộng đồng của mình, ngài viết: “Nếu anh chị em muốn người khác cũng được bình an, thì chính anh chị em hãy bình an, chính anh chị em hãy ở lại trong sự bình an. Để thắp sáng người khác, hãy để sự bình an của lòng bác ái của anh chị em bùng cháy rực rỡ trong anh chị em.” [2]

Anh chị em thân mến, dù chúng ta có ơn đức tin hay dường như không có nó, chúng ta hãy mở ra cho hòa bình! Hãy chào đón và thừa nhận nó, hơn là coi nó xa vời và bất khả thi. Trước khi là một mục tiêu, hòa bình là một sự hiện diện và một hành trình. Cho dù nó bị cản trở từ bên trong và bên ngoài chúng ta, giống như một ngọn lửa nhỏ bị đe dọa bởi cơn bão, nhưng chúng ta hãy giữ lấy nó, không quên tên tuổi hay câu chuyện của những người đã làm chứng cho nó. Đó là một nguyên tắc hướng dẫn và quyết định những lựa chọn của chúng ta. Bao gồm cả những nơi chỉ còn lại đổ nát và tuyệt vọng dường như là điều không thể tránh khỏi, chúng ta vẫn tìm thấy ngày nay những người đã không quên hòa bình. Cũng như vào tối Phục Sinh, Chúa Giêsu đã bước vào nơi mà các môn đệ sợ hãi và nản chí của Người đang ở, cũng thế bình an của Chúa Kitô phục sinh cũng tiếp tục vượt qua mọi cánh cửa và rào cản thông qua tiếng nói và khuôn mặt của những chứng nhân cho Người. Đó là ân huệ cho phép chúng ta không quên điều thiện hảo, nhận ra nó là chiến thắng và lựa chọn nó một lần nữa và cùng nhau.

Một nền hòa bình không vũ trang

Ngay trước khi bị bắt, trong một khoảnh khắc tin tưởng sâu xa, Chúa Giêsu nói với những ai đang ở với Người: “Thầy để lại ​bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian.” Và Người lập tức nói thêm: “Anh em đừng ​xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Ga 14, 27). Sự xao xuyến và sợ hãi chắc chắn có thể liên quan đến bạo lực sắp xảy đến với Người. Sâu xa hơn, các sách Tin Mừng không che giấu rằng điều khiến các môn đệ bối rối, đó chính là phản ứng bất bạo động của Người: một con đường mà tất cả mọi người, trước tiên là Phêrô, đều phản đối, nhưng cho đến tận cùng, Thầy vẫn yêu cầu họ đi theo Người trên con đường đó. Con đường của Chúa Giêsu tiếp tục là nguồn gốc của sự xao xuyến và sợ hãi. Và Người kiên quyết nhắc lại với bất cứ ai muốn bảo vệ Ngài: “Hãy xỏ gươm vào vỏ” (Ga 18, 11; x. Mt 26, 52). Sự bình an của Chúa Giêsu phục sinh là không vũ trang, bởi vì cuộc đấu tranh của Người là không vũ trang, trong những hoàn cảnh lịch sử, chính trị và xã hội cụ thể. Các Kitô hữu phải cùng nhau làm chứng một cách ngôn sứ cho sự mới mẻ này, bằng cách nhớ đến những bi kịch mà họ quá thường xuyên đồng lõa. Dụ ngôn về Ngày Phán Xét Cuối Cùng mời gọi tất cả các Kitô hữu hành động với lòng thương xót trong sự nhận thức này (x. Mt 25, 31-46). Và khi làm như vậy, họ sẽ tìm thấy bên cạnh mình những anh chị em mà, bằng những cách khác nhau, đã lắng nghe nỗi đau khổ của người khác và đã tự nội tâm giải thoát mình khỏi cạm bẫy của bạo lực.

Mặc dù ngày nay nhiều người có tấm lòng hướng về hòa bình, nhưng họ lại cảm thấy rất bất lực trước dòng sự kiện ngày càng bất ổn. Quả thế, thánh Augustinô đã từng chỉ ra một nghịch lý đặc biệt: “Ca ngợi hòa bình, đó là điều khó hơn là sở hữu nó. Thực sự chúng ta muốn ca ngợi nó? Chúng ta khao khát sức mạnh, chúng ta tìm cách khơi dậy sự nhạy cảm, chúng ta cân bằng lời nói. Ngược lại, có phải chúng ta muốn sở hữu nó? Không cần nỗ lực, nó là của chúng ta, chúng ta nắm giữ nó.” [3]

Khi chúng ta coi hòa bình như một lý tưởng xa vời, cuối cùng chúng ta không còn coi việc người ta có thể phủ nhận và thậm chí đi đến chiến tranh để đạt được hòa bình là điều đáng xấu hổ nữa. Những ý tưởng tốt đẹp, những lời lẽ được cân nhắc, và khả năng nói rằng hòa bình đang đến gần dường như đều thiếu vắng. Nếu hòa bình không phải là một thực tế được sống, được gìn giữ và vun đắp, thì sự hung hăng sẽ lan rộng trong cả đời sống gia đình và xã hội. Trong mối quan hệ giữa công dân và người cầm quyền, người ta đi đến chỗ coi là thiếu sót việc không chuẩn bị đầy đủ cho chiến tranh, không phản ứng trước các cuộc tấn công, không đáp trả bạo lực. Vượt quá nguyên tắc phòng vệ chính đáng, lôgic đối kháng này, về mặt chính trị, là dữ liệu thời sự nhất trong sự bất ổn toàn cầu vốn mỗi ngày càng trở nên thê thảm và khó lường hơn. Không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà cầm quyền liên tục kêu gọi tăng chi tiêu quân sự và những lựa chọn phát xuất từ đó được trình bày với lý do biện minh về mối nguy hiểm do các quốc gia khác gây ra. Thật vậy, sức mạnh răn đe của quyền lực, và đặc biệt là sức mạnh răn đe hạt nhân, thể hiện sự phi lý của mối quan hệ giữa các dân tộc không dựa trên luật pháp, công lý hay lòng tin, nhưng dựa trên nỗi sợ hãi và sự thống trị của vũ lực. “Do đó, như Thánh Gioan XXIII đã viết vào thời của ngài, dân chúng sống trong lo sợ liên lỉ và như thể bị đe dọa bởi một cơn bão khủng khiếp, có khả năng bùng phát bất cứ lúc nào. Và không phải không có lý do, vì việc vũ trang luôn sẵn sàng. Việc có những người trên thế giới sẵn sàng chịu trách nhiệm cho vô số vụ thảm sát và tàn tích của chiến tranh có thể có vẻ khó tin; tuy nhiên, người ta buộc phải thừa nhận, một sự bất ngờ, một tai nạn, cũng đủ để gây ra một cuộc bùng nổ lớn.” [4]

Tuy vậy, vào năm 2024, chi tiêu quân sự toàn cầu đã tăng 9,4% so với năm trước, xác nhận xu hướng không gián đoạn từ mười năm qua và đạt tới con số 2,718 nghìn tỷ đô la, tức là 2,5% GDP toàn cầu. [5] Hơn nữa, ngày nay, người ta dường như muốn phản ứng đối với những thách thức mới không chỉ thông qua nỗ lực kinh tế đáng kể trong việc tái vũ trang, mà còn thông qua việc điều chỉnh lại các chính sách giáo dục: thay vì một nền văn hóa về ký ức vốn giữ gìn nhận thức có được trong thế kỷ XX và không quên hàng triệu nạn nhân, người ta lại thúc đẩy các chiến dịch truyền thông và chương trình giáo dục, trong các trường học và đại học cũng như trên các phương tiện truyền thông, lan truyền nhận thức về các mối đe dọa và truyền tải một quan niệm thuần túy vũ trang về quốc phòng và an ninh.

Tuy nhiên, “những người thực sự yêu chuộng hòa bình cũng yêu cả những kẻ thù của hòa bình.” [6] Do đó, thánh Augustinô khuyên không được phá hủy cầu nối và không nên sa đà vào những lời khiển trách, mà nên chọn con đường lắng nghe hơn và, trong chừng mực có thể, con đường gặp gỡ với động cơ của người khác. Sáu mươi năm trước, Công đồng Vatican II đã kết thúc với việc ý thức về một cuộc đối thoại cấp bách giữa Giáo hội và thế giới đương đại. Đặc biệt, Hiến chương Gaudium et spes đã thu hút sự chú ý đến sự tiến triển của thực hành chiến tranh: “Mối nguy hiểm đặc biệt của chiến tranh hiện đại nằm ở chỗ nó tạo cơ hội cho những người sở hữu vũ khí khoa học mới hơn phạm tội ác; và, bằng một chuỗi sự kiện cách nào đó không thể tránh khỏi, nó có thể đẩy ý muốn của con người đến những quyết định tàn bạo nhất. Để điều này không bao giờ xảy ra nữa, các Giám mục trên thế giới, đoàn kết và nhất trí, cầu xin tất cả mọi người, đặc biệt là các nguyên thủ quốc gia và các nhà chức trách quân sự, hãy luôn luôn cân nhắc trách nhiệm to lớn này trước mặt Chúa và trước toàn thể nhân loại.” [7]

Trong khi nhắc lại lời kêu gọi của các Nghị phụ của Công đồng và khẳng định rằng đối thoại là con đường hiệu quả nhất ở mọi cấp độ, chúng ta nhận thấy những tiến bộ công nghệ và việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong lĩnh vực quân sự đã làm trầm trọng thêm khía cạnh bi thảm của các cuộc xung đột vũ trang. Chúng ta thậm chí còn chứng kiến ​​quá trình rũ bỏ trách nhiệm của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự, do việc “ủy quyền” ngày càng nhiều cho máy móc về các quyết định liên quan đến sự sống và cái chết của con người. Đó là một vòng xoáy hủy diệt chưa từng có đối với chủ thuyết nhân văn pháp lý và triết học, trên đó toàn bộ nền văn minh dựa vào và nhờ nó toàn bộ nền văn minh được bảo vệ. Cần tố giác sự tập trung khổng lồ các lợi ích kinh tế và tài chính tư nhân vốn đang đẩy các Nhà nước theo hướng này; nhưng điều đó vẫn chưa đủ nếu đồng thời chúng ta không thúc đẩy sự thức tỉnh lương tâm và tư duy phê bình. Thông điệp Fratelli tutti trình bày thánh Phanxicô Assisi như một ví dụ về sự thức tỉnh như vậy: “Trong thế giới đầy những tháp canh và bức tường bảo vệ này, các thành phố bị xé nát bởi những cuộc chiến đẫm máu giữa các phe phái hùng mạnh, trong khi những khu khốn khổ ở vùng ngoại vi bị gạt ra ngoài lề ngày càng mở rộng. Ở đó, thánh Phanxicô đã nhận được sự bình an nội tâm đích thực, giải thoát bản thân khỏi mọi ham muốn thống trị người khác, trở thành một trong những người rốt hết và tìm cách sống hòa thuận với mọi người.” [8] Đây là một câu chuyện muốn được tiếp tục trong chúng ta, và kêu gọi chúng ta hợp nhất những nỗ lực của mình để cùng nhau góp phần vào một nền hòa bình có sức giải giới, một nền hòa bình được sinh ra từ sự cởi mở và lòng khiêm nhường Tin Mừng.

Một nền hòa bình có sức giải giới

Lòng tốt thật có sức giải giới. Có lẽ chính vì thế mà Thiên Chúa đã trở thành một trẻ thơ. Mầu nhiệm Nhập Thể, vốn đạt đến sự hạ mình trọn vẹn nhất trong cuộc xuống ngục tổ tông, bắt đầu trong dạ một người mẹ trẻ và được biểu lộ trong máng cỏ Bêlem. “Bình an dưới thế”, các thiên thần hát vang khi loan báo sự hiện diện của một Thiên Chúa không có khả năng tự vệ, mà nhân loại chỉ có thể khám phá mình được Ngài yêu thương khi quan tâm đến Ngài (x. Lc 2, 13-14). Không có gì có sức mạnh thay đổi chúng ta như một đứa trẻ. Và có lẽ chính suy nghĩ về những người con của chúng ta, về trẻ em, nhưng cũng về những người yếu đuối như chúng, đã xuyên thấu trái tim chúng ta (x. Cv 2, 37). Về vấn đề này, Vị Tiền Nhiệm đáng kính của tôi đã viết rằng “sự mong manh yếu đuối của con người có sức mạnh làm cho chúng ta sáng suốt hơn về những gì tồn tại và những gì qua đi, về những gì làm cho sống và những gì giết chết”. Có lẽ chính vì điều đó mà chúng ta thường có xu hướng phủ nhận các giới hạn và chạy trốn khỏi những người mong manh và bị tổn thương: họ có sức mạnh để đặt vấn đề về hướng đi mà chúng ta đã chọn, với tư cách cá nhân và với tư cách cộng đồng.” [9]

Đức Gioan XXIII là người đầu tiên đưa ra viễn cảnh giải trừ quân bị toàn diện, điều chỉ có thể đạt được tỏ rõ thông qua sự đổi mới tâm hồn và trí tuệ. Ngài viết trong thông điệp Pacem in terris: “Tất cả mọi người hãy xác tín điều này: ngăn chặn sự gia tăng tiềm lực quân sự, giảm vũ trang một cách hiệu quả, và – huống hồ là – loại bỏ chúng, là những điều không thể thực thi hoặc gần như không thể nếu không có sự giải trừ quân bị toàn diện vốn cũng chạm đến tận tâm hồn: cần phải ra sức, cách nhất trí và chân thành, loại bỏ nỗi sợ hãi và chứng rối loạn tâm thần chiến tranh. Điều này đòi hỏi rằng đối với tiên đề muốn hòa bình là kết quả của sự cân bằng vũ trang, chúng ta phải thay thế bằng nguyên tắc rằng hòa bình đích thực chỉ có thể được xây dựng trên sự tin tưởng lẫn nhau. Ta tin rằng đây là một mục tiêu có thể đạt được, vì nó không chỉ là điều được lý trí đòi hỏi, nhưng tự bản thân nó còn là điều đáng mong muốn nhất và mang lại lợi ích to lớn nhất.” [10]

Đây là một phục vụ cơ bản mà các tôn giáo phải thực hiện đối với nhân loại đang đau khổ, bằng cách chú ý đến mưu toan ngày càng gia tăng trong việc biến ngay cả tư tưởng và lời nói thành vũ khí. Các truyền thống tâm linh vĩ đại, cũng như việc sử dụng lý trí đúng đắn, dẫn chúng ta vượt lên trên những liên hệ về huyết thống hay sắc tộc, và vượt lên trên những hội nhóm chỉ công nhận những người giống mình và bác bỏ những người khác biệt. Ngày nay, chúng ta nhận thấy rằng điều này không thể được xem là hiển nhiên. Thật không may, trong toàn cảnh đương đại, việc đưa những lời lẽ đức tin vào cuộc đấu tranh chính trị, ca ngợi chủ nghĩa dân tộc và biện minh về mặt tôn giáo cho bạo lực và xung đột vũ trang đang ngày càng trở nên phổ biến. Các tín hữu phải tích cực bác bỏ, trước hết qua cuộc sống của họ, những hình thức báng bổ làm lu mờ Danh Thánh của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao, cùng với hành động, việc vun đắp cầu nguyện, tâm linh và đối thoại đại kết và liên tôn như những con đường hòa bình và những ngôn ngữ gặp gỡ giữa các truyền thống và văn hóa là điều cần thiết hơn bao giờ hết. Trên khắp thế giới, người ta mong ước rằng “mỗi cộng đồng sẽ trở thành một ‘ngôi nhà hòa bình’, nơi người ta học cách hóa giải thù địch thông qua đối thoại, nơi người ta thực hành công lý và vun trồng sự tha thứ.” [11] Quả thế, ngày nay, hơn bao giờ hết, cần phải cho thấy rằng hòa bình không phải là một điều không tưởng, thông qua sự sáng tạo mục vụ chu đáo và hiệu quả.

Mặt khác, điều này không được làm cho mọi người xao nhãng khỏi tầm quan trọng của chiều kích chính trị. Những người được kêu gọi đảm nhận trách nhiệm công cộng ở cấp cao nhất và trong các cơ quan có tư cách cao nhất hãy “nghiên cứu kỹ lưỡng vấn đề về sự cân bằng quốc tế thực sự nhân đạo, một sự cân bằng dựa trên lòng tin lẫn nhau, lòng trung thực trong ngoại giao và sự trung thành trong việc tuân thủ các hiệp ước. Mọi khía cạnh của vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng, để cuối cùng có thể tìm ra điểm đồng thuận, từ đó khởi xướng các hiệp ước chân thành, lâu dài và có lợi.” [12] Đây là con đường có sức giải giới của ngoại giao, của trung gian hòa giải và luật pháp quốc tế, nhưng thật không may lại bị phủ nhận bởi những vi phạm ngày càng thường xuyên đối với các thỏa thuận khó khăn đạt được, trong một bối cảnh cần củng cố các thể chế siêu quốc gia, chứ không phải làm suy yếu tính hợp pháp của chúng.

Ngày nay, công lý và phẩm giá con người dễ bị tổn hại hơn bao giờ hết trước sự mất cân bằng quyền lực giữa những người quyền lực nhất. Làm thế nào sống một thời kỳ bất ổn và xung đột trong khi giải thoát bản thân khỏi sự dữ? Chúng ta phải khuyến khích và hỗ trợ bất kỳ sáng kiến ​​tinh thần, văn hóa và chính trị nào giữ cho hy vọng luôn sống động bằng cách chống lại sự lan rộng của “thái độ định mệnh chủ nghĩa, như thể các động lực đang diễn ra được tạo ra bởi các lực lượng vô hình, khiếm ngôi và bởi các cấu trúc độc lập với ý chí của con người.” [13] Thật vậy, nếu “cách tốt nhất để thống trị và tiến bộ không bị hạn chế là gieo rắc sự tuyệt vọng và khơi dậy sự ngờ vực liên tục, ngay cả dưới cái cớ bảo vệ một số giá trị,”[14] thì chiến lược như vậy phải được đối lập bằng sự phát triển của các xã hội dân sự có ý thức, các hình thức hiệp hội có trách nhiệm, các kinh nghiệm tham gia bất bạo động và các thực hành công lý phục hồi ở cả quy mô nhỏ và lớn. Đức Lêô XIII đã nhấn mạnh rõ điều này trong thông điệp Rerum novarum: “Kinh nghiệm của con người về sức lực hạn hẹp của mình buộc và thúc đẩy họ tìm kiếm sự hợp tác với bên ngoài. Chính trong Thánh Kinh mà chúng ta đọc được câu châm ngôn này: “Hai người thì hơn một, vì hai người làm việc cực khổ sẽ thu nhập khá hơn. Người này ngã đã có người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng dậy cả!’” (Hc 4, 9-10). Và châm ngôn khác: “Một người anh em được người anh em mình giúp đỡ thì còn hơn một thành trì vững chắc” (Cn 18, 19) ”. [15]

Mong rằng đây sẽ là kết quả của Năm Thánh Hy Vọng, vốn đã thúc đẩy hàng triệu người tái khám phá chính mình như những người hành hương và thực hiện nơi chính mình sự giải trừ vũ khí trong trái tim, tâm trí và cuộc sống, mà Thiên Chúa sẽ không chậm trễ đáp lại bằng cách thực hiện lời hứa của Ngài: “Người sẽ đứng làm ​trọng tài giữa các quốc gia và phân xử cho muôn dân tộc. Họ sẽ ​đúc gươm đao thành cuốc thành cày, rèn giáo mác nên liềm nên hái. Dân này nước nọ sẽ không còn vung kiếm đánh nhau, và thiên hạ thôi học nghề chinh chiến. Hãy đến đây, nhà Giacóp hỡi, ta cùng đi, nhờ ​ánh sáng Đức Chúa soi đường” (Is 2, 4-5).

Vatican, ngày 8 tháng 12 năm 2025

LÊÔ XIV, Mục tử của các mục tử

—————————————————
[1] Xem Phép lành Tông Tòa “Urbi et Orbi” và lời chào đầu tiên, ban công của Vương cung thánh đường Thánh-Phêrô (8/5/2025).
[2] Augustin d’Hippone, Discours 357, 3.
[3] Ibid., 1.
[4] Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris (11/4/1963), số 111.
[5] Cf. SIPRI Yearbook: Armaments, Disarmament and International Security (2025).
[6] Augustin d’Hippone, Discours 357, 1.
[7] Công đồng Vatican II, Hiến chế Gaudium et spes, số 80.
[8] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 4.
[9] Id., Thư gởi cho giám đốc nhật báo Corriere della Sera (14/3/2025).
[10] Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris (11/4/1963), số 113.
[11] Diễn văn cho các Giám mục của HĐGM Ý (17/6/2025).
[12] Gioan XXIII, Thông điệp Pacem in terris (11/4/1963), số 118.
[13] Bênêđíctô XVI, Thông điệp Caritas in veritate (29/6/2009), số 42.
[14] Phanxicô, Thông điệp Fratelli tutti (3/10/2020), số 15.
[15] Lêô XIII, Thông điệp Rerum novarum (15/5/1891), số 37.
———————————————————-

Tý Linh chuyển ngữ (nguồn : vatican.va)

Tác giả: Tý Linh

Nguồn tin: Xuân Bích Việt Nam

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Facebook Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Kênh Youtube Gia đình Cựu Chủng sinh Huế
Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập169
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm168
  • Hôm nay203,296
  • Tháng hiện tại4,163,885
  • Tổng lượt truy cập87,906,290
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây