BỘ GIÁO LÝ ĐỨC TIN
Tuyên ngôn Fiducia supplicans
Về ý nghĩa mục vụ của các lời chúc lành
Giới thiệu
Tuyên ngôn này xem xét các vấn đề khác nhau đã được đệ trình lên Bộ này, cả trong những năm qua và gần đây. Để soạn thảo nó, theo thông lệ, các chuyên gia đã được tham khảo ý kiến, một quy trình soạn thảo đầy đủ đã được thực hiện và dự án đã được thảo luận trong Hội nghị Phân ban Giáo lý của Bộ. Trong thời gian biên soạn tài liệu này, không thiếu những cuộc thảo luận với Đức Thánh Cha. Tuyên bố cuối cùng đã được đệ trình lên Đức Thánh Cha, người đã phê chuẩn nó với chữ ký của ngài.
Trong quá trình nghiên cứu chủ đề của tài liệu này, câu trả lời của Đức Thánh Cha đối với các nghi vấn (dubia) của một số Hồng y đã được công bố, điều này cung cấp những giải thích rõ ràng quan trọng cho suy tư hiện được đề xuất ở đây và là yếu tố quyết định đối với công việc của Bộ. Vì “Giáo triều Rôma trước hết là một công cụ phục vụ đấng kế vị Thánh Phêrô” (Tông hiến Praedicate Evangelium, II, 1), nên công việc của chúng tôi phải thúc đẩy việc tiếp nhận giáo huấn của Đức Thánh Cha, bên cạnh việc hiểu biết về giáo lý lâu đời của Giáo hội.
Như trong câu trả lời đã được đề cập của Đức Thánh Cha đối với các nghi vấn của hai Hồng y, Tuyên ngôn này vẫn vững chắc trên giáo lý truyền thống của Giáo hội về hôn nhân, không cho phép bất kỳ loại nghi thức phụng vụ hoặc chúc lành nào tương tự như một nghi thức phụng vụ có thể dẫn đến nhầm lẫn. Tuy nhiên, giá trị của tài liệu này là nó mang lại một sự đóng góp đặc thù và canh tân cho ý nghĩa mục vụ của các lời chúc lành, vốn cho phép mở rộng và làm phong phú thêm sự hiểu biết cổ điển, gắn liền chặt chẽ với viễn cảnh phụng vụ. Suy tư thần học này, dựa trên tầm nhìn mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô, hàm ý một sự phát triển thực sự liên quan đến những gì đã được nói về các lời chúc lành trong Huấn quyền và các văn bản chính thức của Giáo hội. Vì lý do này, văn bản mang hình thức một “Tuyên ngôn”.
Và chính trong bối cảnh này mà chúng ta có thể hiểu được khả năng chúc lành cho các đôi bạn trong hoàn cảnh bất quy tắc và các cặp đồng giới, mà không cần chính thức hợp thức hóa tình trạng của họ hoặc sửa đổi bất kỳ cách nào giáo huấn lâu đời của Giáo hội về hôn nhân.
Tuyên ngôn này cũng muốn cảm phục Dân trung tín của Thiên Chúa, vốn tôn thờ Chúa với rất nhiều cử chỉ tin tưởng sâu sắc vào lòng thương xót của Ngài và, với thái độ này, liên tục đến xin Mẹ Giáo Hội chúc lành.
Hồng y Víctor Manuel FERNÁNDEZ
Tổng trưởng
Dẫn nhập
1. Lòng tin tưởng cầu xin của dân trung tín của Thiên Chúa sẽ nhận được hồng ân chúc lành tuôn chảy từ trái tim Chúa Kitô qua Giáo hội của Người. Như Đức Thánh Cha Phanxicô luôn nhắc nhở chúng ta: “Lời chúc lành vĩ đại của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô, đó là món quà vĩ đại của Thiên Chúa, Con của Ngài. Đó là một lời chúc lành cho toàn thể nhân loại, đó là một lời chúc lành vốn đã cứu độ tất cả chúng ta. Người là Ngôi Lời hằng hữu mà Chúa Cha đã chúc lành cho chúng ta “khi chúng ta còn là tội nhân” (Rm 5, 8), thánh Phaolô nói: Ngôi Lời đã làm người và được hiến tế cho chúng ta trên thập giá”[1].
2. Được hỗ trợ bởi một chân lý cao cả và đầy an ủi như vậy, Bộ này đã xem xét nhiều vấn đề khác nhau, chính thức và không chính thức, về khả năng chúc lành cho các cặp đồng giới và về khả năng đưa ra những lời giải thích mới, dưới ánh sáng thái độ hiền phụ và mục vụ của Đức Thánh Cha Phanxicô, về Bản Phúc đáp cho các nghi vấn (Responsum ad dubium) [2] do Bộ Giáo lý Đức tin trước đây trình bày và công bố vào ngày 22 tháng 2 năm 2021.
3. Bản Phúc đáp (Responsum) được đề cập ở trên đã gây ra nhiều phản ứng khác nhau: một số ca ngợi sự rõ ràng của tài liệu này và tính nhất quán của nó với giáo huấn liên lỉ của Giáo hội; những người khác không tán thành hoặc không cho rằng nó đủ rõ ràng trong cách diễn đạt và các lý do được đưa ra trong phàn Chú thích giải thích (Note explicative) ở phụ lục. Để trả lời, với tình bác ái huynh đệ, cho những người sau cùng này, có vẻ thích hợp để lấy lại chủ đề và đưa ra một tầm nhìn làm cho các khía cạnh giáo lý và mục vụ trở nên mạch lạc, bởi vì “tất cả việc giảng dạy về giáo lý phải được đặt trong thái độ loan báo Tin Mừng vốn đánh thức sự gắn kết của trái tim với sự gần gũi, tình yêu và chứng tá”[3].
I. Lời chúc lành trong Bí tích Hôn phối
4. Câu trả lời gần đây của Đức Thánh Cha Phanxicô cho câu hỏi thứ hai trong số năm câu hỏi do hai Hồng y đặt ra [4] mang đến cơ hội đào sâu vấn đề hơn, đặc biệt là ở các khía cạnh mục vụ của nó. Đó là để tránh việc “người ta [thừa nhận] như là hôn nhân những gì không phải là hôn nhân”[5]. Do đó, những nghi thức và lời cầu nguyện vốn có thể tạo ra sự nhầm lẫn giữa những gì cấu thành hôn nhân, tức là “sự kết hợp độc chiếm, ổn định và bất khả phân ly giữa một người nam và một người nữ, tự nhiên mở ra cho việc sinh con cái”, đều không thể được chấp nhận [6], và những gì mâu thuẫn với nó. Niềm xác tín này dựa trên học thuyết lâu đời của Công giáo về hôn nhân. Chỉ trong bối cảnh này mà các mối quan hệ tính dục mới tìm được ý nghĩa tự nhiên, đúng đắn và đầy đủ nhân bản của chúng. Học thuyết của Giáo hội về điểm này vẫn vững chắc.
5. Đó cũng là quan niệm về hôn nhân được Tin Mừng đề nghị. Đây là lý do tại sao, liên quan đến các lời chúc lành, Giáo hội có quyền và nghĩa vụ tránh bất kỳ loại nghi thức nào có thể mâu thuẫn với niềm xác tín này hoặc dẫn đến nhầm lẫn. Đó cũng là ý nghĩa của Bản Phúc đáp của Bộ Giáo lý Đức tin trước đây, khi khẳng định rằng Giáo hội không có quyền chúc lành cho sự kết hợp (unions) giữa những người cùng giới tính.
6. Cần phải nhấn mạnh rằng, chính trong trường hợp nghi thức Bí tích Hôn phối, vấn đề không phải là bất cứ lời chúc lành nào, nhưng là cử chỉ dành riêng cho thừa tác viên có chức thánh. Trong trường hợp này, lời chúc lành của thừa tác viên có chức thánh liên quan trực tiếp đến sự kết hợp đặc thù của một người nam và một người nữ mà, qua sự ưng thuận của họ, đã thiết lập một giao ước độc chiếm và bất khả phân ly. Điều này cho phép chúng ta nêu bật rõ hơn nguy cơ nhầm lẫn lời chúc lành, được ban cho bất kỳ sự kết hợp nào khác, với nghi thức riêng của Bí tích Hôn phối.
II. Ý nghĩa của các lời chúc lành khác nhau
7. Câu trả lời của Đức Thánh Cha đề cập trên đây cũng mời gọi chúng ta nỗ lực phát triển và làm phong phú thêm ý nghĩa của các lời chúc lành.
8. Các lời chúc lành có thể được coi là một trong những á bí tích phổ biến nhất và không ngừng tiến triển. Quả thật, chúng giúp chúng ta hiểu được sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi biến cố của cuộc sống và nhắc nhở chúng ta rằng, ngay cả khi sử dụng các tạo vật, con người được mời gọi tìm kiếm Thiên Chúa, yêu mến Ngài và trung thành phục vụ Ngài [7]. Đây là lý do tại sao các lời chúc lành có đích đến là những con người, các đồ vật thờ phượng và sùng kính, các ảnh tượng thánh, nơi sinh sống, công việc và đau khổ, hoa màu của ruộng đất và công lao của con người, và mọi thực tại được được tạo dựng vốn quy hướng về Đấng Tạo Hóa và, qua vẻ đẹp của chúng, ca ngợi và chúc tụng Ngài.
Ý nghĩa phụng vụ của các nghi thức chúc lành
9. Theo quan điểm phụng vụ chặt chẽ, lời chúc lành đòi hỏi những gì được chúc lành phải phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa như được bày tỏ trong giáo huấn của Giáo hội.
10. Quả thật, các lời chúc lành được cử hành dựa vào đức tin và nhằm ca ngợi Thiên Chúa và mang lại lợi ích thiêng liêng cho dân Ngài. Như Sách Nghi thức Rôma giải thích, “để mục đích này trở nên rõ ràng hơn, theo truyền thống cổ xưa, các công thức chúc lành trước hết có mục đích tôn vinh Thiên Chúa vì những hồng ân của Ngài, cầu xin những ân huệ của Ngài và chiến thắng quyền lực của ma quỷ trong thế giới”[8]. Đây là lý do tại sao những ai cầu xin sự chúc lành của Thiên Chúa thông qua Giáo hội được mời gọi tăng cường “sự sẵn sàng của mình, bằng cách để mình được hướng dẫn bởi đức tin này mà qua đó mọi sự đều có thể được” và phó thác bản thân cho “tình yêu này vốn thúc đẩy việc tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa”[ 9]. Đây là lý do tại sao, nếu một mặt “luôn luôn và ở mọi nơi có cơ hội để ca ngợi, kêu cầu và tạ ơn Thiên Chúa qua Chúa Kitô, trong Chúa Thánh Thần”, thì mặt khác, cần phải canh chừng rằng “đây không phải là những sự việc, địa điểm hay sự kiện trái với lề luật hoặc tinh thần Phúc Âm” [10]. Đây là cách hiểu phụng vụ về các lời chúc lành, xét như là chúng trở thành nghi thức được Giáo hội chính thức đề nghị.
11. Dựa trên những cân nhắc này, Chú thích giải thích của Bản Phúc đáp được trích dẫn ở trên của Bộ Giáo lý Đức tin trước đây nhắc lại rằng, khi một lời chúc lành được khẩn cầu trên một số mối quan hệ con người bằng một nghi thức phụng vụ thích hợp, điều cần thiết là những gì được chúc lành phải có thể phù hợp với những kế hoạch của Thiên Chúa đã được ghi khắc trong Công trình tạo dựng và được Chúa Kitô mặc khải cách trọn vẹn. Đây là lý do tại sao, vì Giáo hội luôn coi những quan hệ tình dục chỉ được thực hiện trong khuôn khổ hôn nhân là hợp pháp về mặt luân lý, nên Giáo hội không có quyền ban lời chúc lành phụng vụ của mình khi lời chúc lành này có thể, một cách nào đó, mang lại một hình thức hợp pháp hóa về mặt luân lý cho một sự kết hợp có vẻ như là một hôn nhân hoặc một thực hành tình dục ngoài hôn nhân. Nội dung chính của quan điểm này đã được Đức Thánh Cha nhắc lại trong các Câu trả lời của ngài cho các nghi vấn của hai Hồng y.
12. Chúng ta cũng phải tránh nguy cơ giảm thiểu ý nghĩa của các lời chúc lành chỉ theo quan điểm này, bởi vì điều này sẽ dẫn chúng ta đến chỗ đòi hỏi đối với một phép lành đơn giản phải có cùng những điều kiện luân lý như những điều kiện được đòi hỏi để lãnh nhận các Bí tích. Rủi ro này đòi hỏi chúng ta phải mở rộng viễn cảnh này hơn nữa. Thật vậy, có nguy cơ là một cử chỉ mục vụ, vốn rất được yêu thích và phổ biến rộng rãi, lại phải chịu quá nhiều điều kiện luân lý tiên quyết, mà dưới lý do kiểm soát, có thể làm lu mờ sức mạnh vô điều kiện của tình yêu Thiên Chúa mà cử chỉ chúc lành đó dựa trên đó.
13. Chính về vấn đề này mà Đức Thánh Cha Phanxicô đã khuyên nhủ chúng ta đừng “đánh mất đức ái mục tử vốn phải ngang qua mọi quyết định và thái độ của chúng ta” và tránh “tự coi mình là những thẩm phán chỉ từ chối, bác bỏ, loại trừ”[11] . Vì vậy, chúng ta hãy đáp lại đề xuất của ngài bằng cách phát triển sự hiểu biết rộng hơn về các lời chúc lành.
Những lời chúc lành trong Thánh Kinh
14. Để suy từ về các lời chúc lành, bằng cách ghi nhận các quan điểm khác nhau, trước hết chúng ta phải để cho mình được soi sáng bởi tiếng nói của Thánh Kinh.
15. “Nguyện Đức Chúa chúc lành và gìn giữ anh em. Nguyện Đức Chúa tươi nét mặt nhìn đến anh em, và dủ lòng thương anh em. Nguyện Đức Chúa ghé mắt nhìn, và ban bình an cho anh em” (Ds 6, 24-26). “Lời chúc lành tư tế” mà chúng ta tìm thấy trong Cựu Ước này, chính xác hơn là trong sách Dân Số, có tính chất “đi xuống” vì nó tượng trưng cho lời cầu xin chúc lành của Thiên Chúa xuống trên con người: nó là một trong những bản văn cổ nhất về các lời chúc lành của Thiên Chúa. Tiếp đến, có loại chúc lành thứ hai mà chúng ta tìm thấy trong các trang Thánh Kinh, đó là lời chúc lành “đi lên”, từ đất hướng về trời, hướng về Thiên Chúa. Như thế, lời chúc lành tương đương với ngợi khen, ca tụng, tạ ơn Thiên Chúa vì lòng thương xót và trung tín của Ngài, vì những kỳ công Ngài đã tạo nên và vì tất cả những gì đã xảy ra theo ý muốn của Ngài: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi, toàn thân tôi, hãy chúc tụng Thánh Danh” (Tv 103,1).
16. Đối với Thiên Chúa là Đấng chúc lành, chúng ta cũng đáp lại bằng lời chúc tụng. Melkisêđê, vua Salem, đã chúc lành cho Abraham (x. St 14,19); Rêbêca được gia đình chúc lành ngay trước khi trở thành vợ của Isaac (x. St 24, 60), người, đến lượt mình, chúc phúc cho con trai mình là Giacóp (x. St 27, 27). Giacóp chúc lành cho Pharaô (x. St 47, 10), cho các cháu trai của mình là Ephraim và Manassê (x. St 48, 20) và 12 người con trai của mình (x. St 49, 28). Môsê và Aaron chúc lành cho cộng đoàn (x. Xh 39, 43; Lv 9, 22). Những người chủ gia đình chúc lành cho con cái trong các cuộc hôn nhân, trước khi bắt đầu một cuộc hành trình, khi cái chết đang đến gần. Do đó, những lời chúc lành này xuất hiện như một món quà dồi dào và vô điều kiện.
17. Lời chúc lành trong Tân Ước về cơ bản vẫn giữ nguyên ý nghĩa của Cựu Ước. Chúng ta tìm thấy hồng ân Thiên Chúa “đi xuống”, lời tạ ơn của con người “đi lên” và lời chúc lành con người ban tặng “mở rộng” đến đồng loại của mình. Ông Dacaria, sau khi nói lại được, đã chúc tụng Chúa vì những kỳ công của Ngài (x. Lc 1:64). Cụ già Simeon, ôm Chúa Giêsu mới sinh trong tay, đã chúc tụng Thiên Chúa vì đã ban cho ông ân sủng được chiêm ngưỡng Đấng Mêsia cứu độ, rồi ông cũng chúc lành cho cha mẹ của Người là Đức Maria và thánh Giuse (x. Lc 2, 34). Chúa Giêsu chúc tụng Chúa Cha, trong bài thánh thi ca ngợi và hân hoan nổi tiếng dâng lên Ngài: “Lạy Cha là Chúa trời đất, con ca tụng Cha” (Mt 11, 25).
18. Tiếp nối Cựu Ước, lời chúc lành nơi Chúa Giêsu không chỉ đi lên, quy hướng về Chúa Cha, mà còn đi xuống, tuôn đổ trên những người khác như một cử chỉ ân sủng, bảo vệ và nhân từ. Chính Chúa Giêsu đã thực hiện và khuyến khích việc thực hành này. Chẳng hạn, Người chúc lành cho các trẻ em: “Người ôm hôn chúng và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10, 16). Và cuộc đời trần thế của Chúa Giêsu sẽ kết thúc chính bằng phép lành cuối cùng dành cho Nhóm Mười Một, ngay trước khi lên cùng Chúa Cha: “Và Người giơ tay chúc lành cho họ. Đang khi chúc lành cho các ông, Người tách ra khỏi các ông và được rước lên trời” (Lc 24,50-51). Hình ảnh cuối cùng của Chúa Giêsu trên trái đất, đó là đôi tay giơ lên, đang chúc lành.
19. Trong mầu nhiệm tình yêu của mình, qua Chúa Kitô, Thiên Chúa thông truyền cho Giáo hội quyền năng chúc lành. Được Thiên Chúa ban cho con người và được họ ban cho người lân cận của mình, lời chúc lành được biến thành sự hòa nhập, liên đới và kiến tạo hòa bình. Đó là một thông điệp tích cực về sự an ủi, quan tâm và khuyến khích. Lời chúc lành thể hiện vòng tay thương xót của Thiên Chúa và tình mẫu tử của Giáo hội vốn mời gọi các tín hữu có cùng những tâm tình như Thiên Chúa đối với anh chị em của mình.
Một sự hiểu biết thần học-mục vụ về các lời chúc lành
20. Người xin chúc lành cho thấy rằng mình cần sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa trong lịch sử của mình, và người xin Giáo hội chúc lành đều nhìn nhận Giáo hội là bí tích cứu độ mà Thiên Chúa ban tặng. Tìm kiếm lời chúc lành trong Giáo hội, đó là thừa nhận rằng đời sống của Giáo hội xuất phát từ lòng thương xót của Thiên Chúa và giúp chúng ta tiến về phía trước, sống tốt hơn, đáp lại ý muốn của Chúa.
21. Để giúp chúng ta hiểu được giá trị của một cách tiếp cận mang tính mục vụ hơn đối với các lời chúc lành, Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta hãy chiêm ngắm, với thái độ đức tin và lòng thương xót của người cha, sự kiện rằng “khi chúng ta cầu xin một lời chúc lành, đó là một lời cầu xin sự giúp đỡ được dâng lên Thiên Chúa, một lời cầu nguyện để có thể sống tốt hơn, một niềm tin tưởng vào một người Cha, Đấng có thể giúp chúng ta sống tốt hơn”[12]. Lời cầu xin này phải được coi trọng, đồng hành và đón nhận với lòng biết ơn. Những người, một cách tự phát, đến xin một lời chúc lành đang biểu lộ qua lời cầu xin này sự cởi mở chân thành của họ đối với sự siêu việt, sự tin tưởng của trái tim họ không chỉ dựa vào sức mạnh của chính mình, mà còn nhu cầu của họ về Thiên Chúa và ước muốn thoát khỏi sự chật hẹp của thế giới khép kín nơi chính mình này.
22. Như thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu dạy chúng ta, ngoài niềm tin tưởng này “không có con đường nào khác dẫn chúng ta đến Tình yêu trao hiến tất cả. Nhờ sự tin tưởng, nguồn ân sủng tràn trề trong cuộc sống của chúng ta […] Do đó, thái độ thích hợp nhất là đặt niềm tin tưởng của trái tim ra ngoài bản thân, vào lòng thương xót vô hạn của một Thiên Chúa yêu thương không giới hạn […]. Tội lỗi của thế gian thì bao la, nhưng không phải là vô hạn. Trái lại, tình yêu thương xót của Đấng Cứu Chuộc là vô hạn”[13].
23. Khi những cách thể hiện đức tin này được xem xét bên ngoài khuôn khổ phụng vụ, chúng ta thấy mình ở trong một lĩnh vực có tính tự phát và tự do lớn lao hơn, nhưng “tính chất tùy chọn của các việc thực hành đạo đức trong mọi trường hợp không thể có nghĩa là một sự thiếu hiểu biết nào đó, thậm chí là sự coi thường đối với chúng. Ngược lại, thái độ đúng đắn cần được áp dụng là thái độ hệ tại việc coi trọng một cách thích đáng và khôn ngoan những sự phong phú đáng kể của lòng đạo đức bình dân, cùng với những tiềm năng của nó”[14]. Do đó, các lời chúc lành trở thành một nguồn lực mục vụ cần được quý trọng hơn là một rủi ro hay một vấn đề.
24. Được xem xét từ quan điểm mục vụ bình dân, các lời chúc lành phải được đánh giá như những hành vi sùng kính vốn “có một vị trí riêng của chúng, bên ngoài việc cử hành Thánh Thể và các Bí tích khác […] . Ngôn ngữ, nhịp điệu, hình thể, nét nhấn thần học của lòng đạo đức bình dân được phân biệt rõ ràng với các yếu tố tương ứng trong các hành động phụng vụ”. Vì lý do tương tự, “cần phải tránh coi các thực hành đạo đức là “các cử hành phụng vụ”, bởi vì chúng phải giữ được phong cách riêng, sự đơn giản và ngôn ngữ đặc biệt của chúng” [15].
25. Hơn nữa, Giáo hội phải tránh xây dựng việc thực hành mục vụ của mình trên tính cố định của một số sơ đồ giáo lý hoặc kỷ luật, đặc biệt khi chúng làm nảy sinh “chủ nghĩa tinh hoa quá say mê bản thân và độc đoán, trong đó, thay vì loan báo Tin Mừng, chúng ta phân tích và phân loại người khác, và, thay vì tạo điều kiện tiếp cận ân sủng, các năng lượng sẽ được dùng hết trong việc kiểm soát”[16]. Vì vậy, khi người ta cầu xin một lời chúc lành, việc phân tích đạo đức cùng tận không nên được đặt ra như là điều kiện tiên quyết để ban lời chúc lành đó. Không cần phải đòi hỏi từ phía họ bất kỳ sự hoàn thiện luân lý trước nào.
26. Trong viễn cảnh này, từ quan điểm mục vụ, các câu trả lời (Respuestas) của Đức Thánh Cha giúp đào sâu tốt hơn quan điểm đã được Bộ Giáo lý Đức tin trước đây đưa ra vào năm 2021, vì trên thực tế, chúng mời gọi phân định về khả năng có “các hình thức chúc lành, do một hoặc nhiều người cầu xin, vốn không truyền tải một quan niệm sai lầm về hôn nhân”[17] và cũng tính đến thực tế là, trong những hoàn cảnh không thể chấp nhận được về mặt luân lý theo quan điểm khách quan, “chính đức ái mục tử đòi hỏi chúng ta không chỉ đơn giản coi những người khác là “tội nhân” mà tội lỗi hoặc trách nhiệm của họ có thể được giảm nhẹ bởi những yếu tố khác nhau vốn tác động đến khả năng quy tội chủ quan” [18].
27. Trong bài giáo lý được trích dẫn ở phần đầu của Tuyên ngôn này, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đưa ra một mô tả về loại các chúc lành này vốn được ban cho tất cả mọi người, mà không yêu cầu bất cứ điều gì. Thật đáng để đọc với tấm lòng rộng mở những lời này vốn giúp chúng ta nắm bắt được ý nghĩa mục vụ của các lời chúc lành được ban vô điều kiện: “Chính Thiên Chúa chúc lành. Trong những trang đầu tiên của Thánh Kinh, đó là sự lặp đi lặp lại không ngừng các lời chúc lành. Thiên Chúa chúc lành, nhưng con người cũng chúc lành, và rất nhanh chóng, chúng ta khám phá ra rằng lời chúc lành có một sức mạnh đặc biệt, vốn đồng hành với người nhận nó suốt cuộc đời, và khiến tâm hồn con người sẵn sàng để cho Thiên Chúa thay đổi [. .. ]. Đối với Thiên Chúa, chúng ta quan trọng hơn mọi tội lỗi chúng ta có thể phạm, vì Ngài là cha, là mẹ, là tình yêu thuần khiết, Ngài đã chúc lành cho chúng ta luôn mãi. Và Ngài sẽ không bao giờ ngừng chúc lành cho chúng ta. Một trải nghiệm mạnh mẽ là đọc những đoạn Thánh Kinh chúc lành này trong nhà tù hoặc trong một cộng đồng tái hòa nhập. Hãy làm cho những người này cảm thấy rằng họ vẫn được chúc lành bất chấp những lỗi lầm nghiêm trọng của họ, rằng Cha trên trời tiếp tục mong muốn điều tốt lành cho họ và hy vọng rằng cuối cùng họ sẽ mở lòng ra cho điều tốt lành. Ngay cả khi những người thân nhất của họ đã bỏ rơi họ, vì giờ đây những người này đánh giá họ là không thể cứu vãn được, thì đối với Thiên Chúa, họ luôn là con cái của Ngài.”[19].
28. Có nhiều trường hợp người ta tự phát đến xin chúc lành, dù khi hành hương, tại các đền thánh, hay thậm chí khi gặp một linh mục trên đường phố. Ví dụ, chúng ta có thể tham khảo sách phụng vụ De Benedictionibus, trong đó đưa ra một loạt nghi thức chúc lành cho con người: người cao tuổi, người bệnh, người tham gia vào buổi giáo lý hoặc buổi quy tụ cầu nguyện, người hành hương, người đi du lịch, các nhóm và hiệp hội tình nguyện viên, v.v. Những lời chúc lành này dành cho tất cả mọi người, không ai bị loại trừ. Chẳng hạn, trong phần giới thiệu Nghi thức chúc lành cho người cao tuổi, có nói rằng mục đích của lời chúc lành “là bày tỏ với người cao tuổi một chứng tá huynh đệ về lòng tôn trọng và biết ơn, và cùng với họ tạ ơn Chúa vì những ân huệ họ đã nhận được từ Ngài và vì những việc tốt mà họ đã hoàn thành nhờ sự giúp đỡ của Ngài”[20].
Trong trường hợp này, đối tượng chúc lành là người cao tuổi, người mà chúng ta cùng tạ ơn Thiên Chúa vì những việc tốt họ đã làm và vì những ân huệ họ đã nhận được. Không ai có thể bị loại trừ khỏi lời tạ ơn này và mỗi người, ngay cả khi họ sống trong những hoàn cảnh không phù hợp với kế hoạch của Đấng Tạo Hóa, đều có những yếu tố tích cực để họ có thể ca ngợi Chúa.
29. Từ quan điểm về chiều kích đi lên, khi chúng ta nhận ra các hồng ân của Chúa và tình yêu vô điều kiện của Ngài, ngay cả trong những hoàn cảnh tội lỗi, đặc biệt khi một lời cầu nguyện được lắng nghe, thì tâm hồn người tín hữu dâng lên lời ca ngợi và chúc tụng Thiên Chúa. Hình thức chúc lành này không bị cấm đối với bất cứ ai. Mỗi người – cá nhân hay trong sự kết hợp với những người khác – đều có thể dâng lời ca ngợi và biết ơn của mình lên Thiên Chúa.
30. Nhưng ý thức bình dân về lời chúc lành cũng bao gồm giá trị của lời chúc lành đi xuống. Nếu “không thích hợp để một giáo phận, một Hội đồng Giám mục hoặc bất kỳ cơ cấu Giáo hội nào khác liên tục và chính thức thiết lập các thủ tục hoặc quy tắc cho mọi loại vấn đề” [21], thì sự thận trọng và khôn ngoan mục vụ có thể gợi ý rằng, để tránh những hình thức tai tiếng hoặc nhầm lẫn nghiêm trọng giữa các tín hữu, thừa tác viên chức thánh liên kết với lời cầu nguyện của những người mà, mặc dù sống một sự kết hợp không thể nào so sánh với hôn nhân, vẫn muốn phó thác mình cho Chúa và cho lòng thương xót của Ngài, cầu xin sự giúp đỡ của Ngài và được hướng dẫn hướng tới sự hiểu biết rõ hơn về kế hoạch của Ngài về tình yêu và sự thật.
III. Chúc lành cho các đôi bạn trong hoàn cảnh bất quy tắc và các cặp đồng giới
31. Trong chân trời được vạch ra như thế, có thể chúc lành cho các đôi bạn trong hoàn cảnh bất quy tắc và các cặp đồng giới, dưới một hình thức mà các thẩm quyền giáo hội không được ấn định về mặt nghi lễ, để không tạo ra sự nhầm lẫn với lời chúc lành đặc thù của Bí tích Hôn phối. Trong những trường hợp này, chúng ta ban một lời chúc lành vốn không chỉ là một giá trị đi lên, nhưng còn là lời cầu xin về một lời chúc lành đi xuống của chính Thiên Chúa trên những người mà, khi nhận ra mình là người nghèo nàn và cần sự giúp đỡ của Ngài, đã không đòi hỏi tính hợp pháp của tình trạng của họ, nhưng cầu xin rằng tất cả những gì là chân thật, tốt đẹp và có giá trị nhân bản trong cuộc sống và trong các mối quan hệ của họ cần được huy động, chữa lành và nâng cao nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần. Những hình thức chúc lành này diễn tả lời cầu xin Thiên Chúa để Ngài ban những sự trợ giúp đến từ sự thúc đẩy của Thánh Thần của Ngài –mà thần học cổ điển gọi là “các hiện sủng” – để các mối quan hệ của con người có thể trưởng thành và phát triển trong sự trung thành với sứ điệp của Tin Mừng, được giải thoát khỏi sự bất toàn và mong manh của mình và được thể hiện trong chiều kích ngày càng lớn hơn của tình yêu Thiên Chúa.
32. Quả thế, ân sủng của Thiên Chúa hành động trong cuộc sống của những người không tự cho mình là công chính nhưng khiêm tốn nhận mình là tội nhân như tất cả mọi người. Ân sủng đó có khả năng định hướng mọi thứ theo kế hoạch nhiệm mầu và khôn lường của Thiên Chúa. Đó là lý do tại sao, với sự khôn ngoan và tình mẫu tử không biết mệt mỏi, Giáo hội đón nhận tất cả những ai đến với Thiên Chúa với tấm lòng khiêm tốn, đồng hành với họ bằng những trợ giúp thiêng liêng này vốn cho phép mọi người hiểu và thực hiện đầy đủ ý muốn của Thiên Chúa trong cuộc sống của họ [22].
33. Lời chúc lành này, mặc dù không phải là một phần của nghi lễ phụng vụ [23], nhưng kết hợp lời nguyện chuyển cầu với lời kêu cầu sự giúp đỡ của Thiên Chúa bởi những người khiêm tốn thưa với Ngài. Thiên Chúa không bao giờ từ chối bất cứ ai đến gần Ngài! Tận sâu xa, lời chúc lành mang đến cho mọi người một phương thế tăng cường niềm tin tưởng vào Chúa. Việc cầu xin lời chúc lành thể hiện và nuôi dưỡng sự mở ra cho sự siêu việt, lòng đạo đức, sự gần gũi với Thiên Chúa trong hàng ngàn hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống, và điều đó không phải là không quan trọng trong thế giới chúng ta đang sống. Đó là một hạt giống của Chúa Thánh Thần cần được nuôi dưỡng và không bị cản trở.
34. Chính phụng vụ của Giáo hội mời gọi chúng ta có thái độ tin tưởng này, ngay giữa tội lỗi, sự thiếu công trạng, những yếu đuối và bối rối của chúng ta, như được minh chứng qua kinh tổng nguyện rất đẹp này được lấy từ Sách lễ Rôma: “Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, tình thương Chúa thật là cao cả, vượt xa mọi công trạng và ước muốn của con người, xin rộng tình tha thứ những lỗi lầm cắt rứt lương tâm chúng con, và thương ban những ơn trọng đại, lòng chúng con chẳng dám mơ tưởng bao giờ” (Chúa Nhật XXVII Thường Niên). Thực vậy, bao nhiêu lần, qua một lời chúc lành đơn giản của vị mục tử, người qua cử chỉ này không có ý định phê chuẩn hay hợp pháp hóa bất cứ điều gì, người ta có thể cảm nghiệm được sự gần gũi của Chúa Cha, “vượt xa mọi công trạng và ước muốn của họ”.
35. Đây là lý do tại sao sự nhạy cảm mục vụ của các thừa tác viên chức thánh cũng phải được giáo dục để thực hiện một cách tự phát các phép lành vốn không có trong sách Nghi thức về các lời chúc lành.
36. Theo nghĩa này, điều cần thiết là phải hiểu mối quan tâm của Đức Thánh Cha để những lời chúc lành không theo nghi lễ này không ngừng trở thành một cử chỉ đơn giản tạo thành một phương tiện hữu hiệu để gia tăng lòng tin tưởng vào Thiên Chúa của những người xin Ngài, bằng cách tránh việc chúng trở thành một hành vi phụng vụ hoặc bán phụng vụ, tương tự như một bí tích. Điều này sẽ tạo nên một tình trạng nghèo nàn nghiêm trọng, bởi vì nó sẽ khiến một cử chỉ có giá trị lớn lao trong lòng đạo đức bình dân chịu sự kiểm soát quá mức, vốn sẽ tước đi sự tự do và tính tự phát của các thừa tác viên trong việc đồng hành mục vụ với đời sống của mọi người.
37. Về vấn đề này, xuất hiện trong tâm trí những lời sau đây của Đức Thánh Cha, đã được trích dẫn một phần rồi: “Các quyết định mà, trong những hoàn cảnh xác định, có thể thuộc phạm vi thận trọng mục vụ, không nhất thiết phải được chuyển đổi thành các chuẩn mực. Nói cách khác, sẽ không thích hợp để một giáo phận, một Hội đồng Giám mục hoặc bất kỳ cơ cấu Giáo hội nào khác liên tục và chính thức thiết lập các thủ tục hoặc quy tắc cho mọi loại vấn đề […]. Giáo luật không được và không thể bao trùm mọi thứ, và các Hội đồng Giám mục cũng không thể có tham vọng thực hiện điều này bằng các văn kiện và nghi thức khác nhau của họ, bởi vì đời sống của Giáo hội ngang qua nhiều kênh ngoài các kênh chuẩn mực ra”[24 ]. Do đó, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở rằng tất cả “những gì vốn là một phần của sự phân định thực tế khi đối mặt với một hoàn cảnh cụ thể đều không thể được nâng lên thành phạm trù của một chuẩn mực”, bởi vì điều này “sẽ làm phát sinh ra một nền luân lý giải ca không thể chịu nổi” [25].
38. Đây là lý do tại sao không được cổ võ hay dự kiến một nghi lễ chúc lành cho các đôi bạn trong hoàn cảnh bất quy tắc, nhưng chúng ta cũng không được ngăn cản hoặc cấm đoán sự gần gũi của Giáo hội với bất kỳ hoàn cảnh nào đang tìm kiếm sự giúp đỡ của Thiên Chúa bằng một lời chúc lành đơn giản. Trong lời cầu nguyện ngắn có thể diễn ra trước lời chúc lành tự phát này, thừa tác viên chức thánh có thể cầu xin bình an, sức khỏe, tinh thần kiên nhẫn, đối thoại và tương trợ, nhưng cũng xin ánh sáng và sức mạnh của Thiên Chúa để có thể thực hiện trọn vẹn ý muốn của Ngài.
39. Trong mọi trường hợp, chính để tránh bất kỳ hình thức nhầm lẫn hoặc tai tiếng nào, khi lời nguyện chúc lành được một đôi bạn trong hoàn cảnh bất quy tắc cầu xin, dù được diễn tả ngoài các nghi lễ quy định trong các sách phụng vụ, thì việc chúc lành này sẽ không bao giờ được thực hiện cùng lúc với các nghi lễ dân sự của sự kết hợp, thậm chí cũng không liên quan đến chúng. Cũng không phải với quần áo, cử chỉ hay lời nói dành riêng cho hôn nhân. Điều tương tự cũng được áp dụng khi một cặp đôi đồng giới cầu xin lời chúc lành.
40. Trái lại, một lời chúc lành như vậy có thể tìm thấy vị trí của nó trong những bối cảnh khác, chẳng hạn như một chuyến viếng thăm đền thánh, một cuộc gặp gỡ với một linh mục, một lời cầu nguyện được đọc trong một nhóm hoặc trong một cuộc hành hương. Thật vậy, qua những lời chúc lành này, vốn không được ban theo những hình thức nghi lễ đặc thù của phụng vụ, nhưng đúng hơn như một cách diễn tả tấm lòng hiền mẫu của Giáo hội, tương tự như những lời chúc lành xuất phát từ sâu thẳm lòng đạo đức bình dân, chúng ta không muốn hợp pháp hóa bất cứ điều gì, nhưng chỉ cởi mở cuộc sống của mình với Thiên Chúa, cầu xin sự giúp đỡ của Ngài để sống tốt hơn, và cũng cầu xin Chúa Thánh Thần để các giá trị của Tin Mừng được sống một cách trung thành nhiều hơn.
41. Những gì được nói trong Tuyên ngôn này về việc chúc lành cho các cặp đồng giới là đủ để hướng dẫn sự phân định thận trọng và phụ tử của các thừa tác viên chức thánh về vấn đề này. Do đó, ngoài những chỉ dẫn trên đây, chúng ta không nên mong đợi những câu trả lời khác về những quy định có thể có để điều chỉnh các chi tiết hoặc các khía cạnh thực tế liên quan đến các lời chúc lành thuộc loại này [26].
IV. Giáo Hội là bí tích của tình yêu vô biên của Thiên Chúa
42. Giáo hội tiếp tục dâng lên những lời cầu nguyện và nài xin mà chính Chúa Kitô, đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lên trong những ngày Người còn sống ở trần thế (x. Dt 5, 7), và vì chính lý do này, chúng có được hiệu quả đặc biệt. Như vậy, “không chỉ nhờ đức ái, bằng gương sáng và những việc sám hối, mà còn nhờ cầu nguyện mà cộng đồng Giáo hội thực hiện vai trò mẫu tử thực sự đối với các linh hồn để đưa họ đến với Chúa Kitô”[27].
43. Như vậy, Giáo hội là bí tích của tình yêu vô biên của Thiên Chúa. Đây là lý do tại sao, ngay cả khi mối quan hệ với Thiên Chúa bị tội lỗi che mờ, vẫn luôn có thể cầu xin lời chúc lành, bằng cách đưa tay cho Ngài, như Phêrô đã làm trong cơn bão khi ông kêu lên Chúa Giêsu: “Lạy Chúa, xin cứu con! » (Mt 14, 30). Ước muốn và nhận được một lời chúc lành có thể là điều đúng đắn khả thi trong một số trường hợp. Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng “một bước nhỏ, giữa những giới hạn to lớn của con người, có thể được Thiên Chúa đánh giá cao hơn cuộc sống bề ngoài đúng đắn của một người trải qua những ngày tháng của mình mà không phải đối mặt với những khó khăn đáng kể” [28]. Như thế, “vẻ đẹp của tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Chúa Giêsu Kitô, chết và sống lại, được tỏa sáng” [29].
44. Mọi lời chúc lành sẽ là cơ hội cho một lời loan báo mới về Tin Mừng (kerygma), một lời mời gọi đến gần hơn bao giờ hết với tình yêu của Chúa Kitô. Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã dạy: “Như Đức Maria, Giáo hội là trung gian của lời chúc lành của Thiên Chúa cho thế giới: Giáo hội đón nhận lời chúc lành bằng cách đón nhận Chúa Giêsu và truyền nó bằng cách mang Chúa Giêsu. Người là lòng thương xót và sự bình an mà thế giới không thể tự ban tặng và luôn cần đến, giống như và còn hơn cả cơm bánh”[30].
45. Cân nhắc những điều trên và tuân theo giáo huấn có thẩm quyền của Đức Thánh Cha Phanxicô, Bộ này cuối cùng mong muốn nhắc lại rằng “đó là cội rễ của sự dịu dàng Kitô giáo, là khả năng cảm thấy mình được chúc lành và khả năng chúc lành. […]. Thế giới này cần lời chúc lành và chúng ta có thể ban lời chúc lành và đón nhận lời chúc lành. Chúa Cha yêu thương chúng ta. Và những gì còn lại đối với chúng ta là niềm vui chúc tụng Ngài, niềm vui tạ ơn Ngài, và học nơi Ngài không phải nguyền rủa mà là chúc lành”[31]. Như thế, tất cả anh chị em sẽ có thể cảm thấy trong Giáo hội rằng họ luôn là những người hành hương, luôn là những người hành khất, luôn được yêu thương và, bất chấp mọi sự, luôn được chúc lành.
Hồng y Víctor Manuel FERNÁNDEZ
Tổng trưởng
Đức ông Armando MATTEO
Thư ký Phân bộ Giáo thuyết
Được tiếp kiến ngày 18 tháng 12 năm 2023,
Phanxicô
——————
[1] Phanxicô, Bài giáo lý về việc cầu nguyện : lời chúc lành (2 /12/ 2020), Osservatore Romano, 2 /12/ 2020, tr. 8.
[2] Xem Bộ Giáo lý Đức tin, «Responsum» ad «dubium» de benedictione unionem personarum eiusdem sexus et Nota esplicativa, AAS 113 (2021), 431-434.
[3] Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24 /11/ 2013), số 42, AAS 105 (2013), 1037-1038.
[4] Xem Phanxicô, Respuestas a los Dubia propuestos por dos Cardenales (11 /7/ 2023).
[5] Ibidem, ad dubium 2, c.
[6] Ibidem, ad dubium 2, a.
[7] Xem Rituale Romanum ex decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Ioannis Pauli PP. II promulgatum, De Benedictionibus, Editio typica, Praenotanda, Typis Polyglottis Vaticanis, Civitate Vaticana 1985, số 12.
[8] Ibidem, số 11: “Quo autem clarius hoc pateat, antiqua ex traditione, formulae benedictionum eo spectant ut imprimis Deum pro eius donis glorificent eiusque impetrent beneficia atque maligni potestatem in mundo compescant.”
[9] Ibidem, số 15 : “Quare illi qui benedictionem Dei per Ecclesiam expostulant, dispositiones suas ea fide confirment, cui omnia sunt possibilia; spe innitantur, quae non confundit; caritate praesertim vivificentur, quae mandata Dei servanda urget.”
[10] Ibidem, số 13 : “Semper ergo et ubique occasio praebetur Deum per Christum in Spiritu Sancto laudandi, invocandi eique gratias reddendi, dummodo agatur de rebus, locis, vel adiunctis quae normae vel spiritui Evangelii non contradicant.”
[11] Phanxicô, Respuestas a los Dubia propuestos por dos Cardenales, ad dubium 2, d.
[12] Ibidem, ad dubium 2, e.
[13] Phanxicô, Tông huấn C’est la confiance (15 /10/ 2023), các số 2, 20, 29.
[14] Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Directoire sur la piété populaire et la liturgie. Principes et orientations, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticano 2002, số 12.
[15] Ibidem, n. 13.
[16] Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24 /11/2013), số 94, AAS 105 (2013), 1060.
[17] Phanxicô, Respuestas a los Dubia propuestos por dos Cardenales, ad dubium 2, e.
[18] Ibidem, ad dubium 2, f.
[19] Phanxicô, Bài giáo lý về việc cầu nguyện : lời chúc lành (2 /12/ 2020), Osservatore Romano, 2 /12/ 2020, tr. 8.
[20] De Benedictionibus, số 258 : “Haec benedictio ad hoc tendit ut ipsi senes a fratribus testimonium accipiant reverentiae grataeque mentis, dum simul cum ipsis Domino gratias reddimus pro beneficiis ab eo acceptis et pro bonis operibus eo adiuvante peractis.”
[21] Phanxicô, Respuestas a los Dubia propuestos por dos Cardenales, ad dubium 2, g.
[22] Phanxicô, Tông huấn Amoris laetitia (19 /3/ 2016), số 250, AAS 108 (2016), 412-413.
[23] Xem Bộ Phụng tự và Kỷ luật Bí tích, Directoire sur la piété populaire et la liturgie. Principes et orientations, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticano 2002, số 13 : “Sự khác biệt khách quan giữa một bên là những thực thi đạo đức và những thực hành sùng kính, và một bên là Phụng vụ, phải xuất hiện một cách rõ ràng trong cách diễn đạt của việc thờ phượng Kitô giáo. […] các hành vi đạo đức và sùng kính có vị trí riêng của chúng, ngoài việc cử hành Bí tích Thánh Thể và các bí tích khác”.
[24] Phanxicô, Respuestas a los Dubia propuestos por dos Cardenales, ad dubium 2, g.
[25] Phanxicô, Tông huấn Amoris laetitia (19 /3/ 2016), số 304, AAS 108 (2016), 436.
[26] Xem ibidem.
[27] Officium Divinum ex decreto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI promulgatum, Liturgia Horarum iuxta Ritum Romanum, Institutio Generalis de Liturgia Horarum, Editio typica altera, Libreria Editrice Vaticana, Città del Vaticano 1985, n. 17 : « Itaque non tantum caritate, exemplo et paenitentiae operibus, sed etiam oratione ecclesialis communitas verum erga animas ad Christum adducendas maternum munus exercet ». [Trad. Française : Constitutionapostolique promulguant l’Office divin restauré par décret du 2e Concile œcuménique du Vatican, AELF, 1980, n. 17].
[28] Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (24 /11/ 2013), số 44, AAS 105 (2013), 1038-1039.
[29] Ibidem, số 36, AAS 105 (2013), 1035.
[30] Bênêđíctô XVI, Bài giảng Lễ Đức Maria Mẹ Thiên Chúa, Ngày Thế giới hòa bình lần thứ 45, Vương cung thánh đường thánh Phêrô (1/1/ 2012), Insegnamenti VIII, 1 (2012), 3.
[31] Phanxicô, Bài giáo lý về việc cầu nguyện : lời chúc lành (2 /12/2020), Osservatore Romano, 2 /12/ 2020, tr. 8.
Tý Linh chuyển ngữ (nguồn: vatican.va)
https://xuanbichvietnam.net/trangchu/tuyen-ngon-fiducia-supplicans-ve-y-nghia-muc-vu-cua-cac-loi-chuc-lanh/