|
THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC Á
CHÂU
được diễn ra tại Rôma từ ngày 19 tháng 04 đến 14 tháng 05 năm 1998. Ngày 24-04-1998, Đức Tổng Giám Mục Têphanô Nguyễn Như Thể đã phát biểu đề tài:
Trọng kính
Đức Thánh Cha, Kính thưa
quý nghị phụ, Chúng tôi xác tín về tầm quan trọng của việc hội
nhập văn hóa trong công cuộc rao giảng Phúc Âm. Liên quan đến Việt
1. Việc tôn kính tổ tiên trong văn hóa Việt Tất cả những nhà truyền giáo và những nhà nhân chủng học, như Léopold Cadière, vì đã sống ở Việt Nam, nên có thể nhận thấy dễ dàng rằng việc phụng thờ (culte) các thần linh là tôn giáo chính của Việt Nam, và rằng việc phụng thờ tổ tiên là yếu tố thiết yếu nhất của việc phụng thờ các thần linh. Những tôn giáo khác hoặc những giáo huấn khác như Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo, cả ba đều đến từ Trung Quốc, đã phải thu nhận những yếu tố thiết yếu của các tư tưởng bình dân, để được dân chúng chấp nhận. Nền luân lý Khổng giáo nhìn xem lòng hiếu thảo như là nhân đức căn bản của gia đình và của xã hội. Nguời ta nhìn xem việc sốt sắng tôn kính và những việc phục vụ dành cho cha mẹ còn sống cũng như khi đã qua đời, như là một bổn phận ưu tiên. Luân lý và nền văn minh đều tùy thuộc vào bổn phận này. Lão giáo xác định rõ ràng những nghi thức tỉ mỉ cho
việc chôn cất cha mẹ qua đời và cho những lễ giỗ khác nhau, chẳng hạn
như lễ giỗ giáp năm ngày qua đời của tổ tiên. Đó là những bổn phận quan
trọng nhất của con cái đối với cha mẹ, nhất là khi con cái là những anh
chị cả trong gia đình. Những tín đồ Phật giáo cũng quý trọng nhiều lòng
thảo hiếu này và xem đó như là việc thực hành cao nhất của lòng từ bi
Phật giáo. Đa số những người cộng sản Việt 2. Việc tôn kính tổ tiên trong cuộc tranh luận
về các nghi thức của việc phụng thờ tổ tiên. Chúng ta biết rõ cuộc tranh luận lịch sử về các
nghi lễ phụng thờ (rites du culte), nhất là những nghi lễ dành cho tổ
tiên, trong xứ truyền giáo Trung Quốc, từ thế kỷ thứ 17 cho đến thế kỷ
20. Trong cuộc tranh cãi này, vì những hiểu lầm trên bình diện lịch sử
và phong tục, nhiều văn kiện đã được công bố chống lại việc chấp nhận
vào những nghi lễ của việc phụng thờ tổ tiên, trong đường lối thực hành
của Công giáo. Giáo Hội Công giáo tại Trung Quốc và Việt Mặc cho tất cả những điều vừa nói, một số người
Công giáo Việt Nam không chấp nhận dễ dàng những thực hành này mà họ xem
như là còn mang tính cách ngoại đạo, vì những giáo huấn đã được lãnh
nhận trước đó. Nguời ta còn cảm thấy vài chia rẽ giữa những người Công
giáo Việt 3. Việc tôn kính tổ tiên là một yếu tố văn hóa
và luân lý. Trong quá khứ, nguời ta đã luôn luôn xem việc thờ kính tổ tiên như là một hình thức của lòng tin tôn giáo. Thoạt tiên, những nghi thức và những cử chỉ của việc tôn kính tổ tiên có đặc tính giống với việc phụng thờ của một tôn giáo. Nhưng xét cho cùng, thì việc phụng thờ này có tích chứa trước hết một đặc tính văn hóa và luân lý thật sâu xa trong đời sống xã hội và gia đình. (x. Huấn thị "Plane compertum e est."). Từ đó, việc rao giảng Phúc Âm tại Việt Nam có thể có yếu tố văn hóa và luân lý hết sức phong phú, và có thể dễ dàng đưa yếu tố này vào trong phụng vụ, nghi thức, vân vân,.. trong giáo lý về sự hiệp thông các thánh. Giáo Hội tại Châu Á, và nhất là tại Việt Nam, không bao giờ được quên rằng “Giáo Hội có bổn phận rao giảng Tin Mừng trong bối cảnh văn hóa của dân chúng; rằng Giáo Hội phải xem như là bổn phận ưu tiên của mình việc đối thoại liên lỉ, khiêm tốn và đầy yêu thương với những nền văn hóa và những truyền thống, ngõ hầu Giáo Hội có thể được hòa nhập hoàn toàn với dân chúng”; (đây là điều Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã tuyên bố vào năm 1974). Một khi vấn đề quan trọng này được giải quyết, và nếu các Giáo Hội tại Châu Á có thể cống hiến những đường hướng tốt để hội nhập văn hóa truyền thống bình dân này theo tinh thần phúc âm, thì người ta có thể hy vọng rằng, trong tương lai, việc rao giảng Phúc Âm tại vùng đất Châu Á này sẽ có tiến bộ lớn. Lời phát biểu ngắn này chỉ muốn đặt ra vấn đề để khơi dậy những suy tư và thảo luận. Việc hội nhập văn hóa vừa là tiến trình nhờ đó Phúc Âm được ăn sâu vào trong những nền văn hóa khác nhau, chẳng hạn như những nghi lễ Công giáo được đưa vào trong những môi trường gia đình, vừa là tiến trình bởi đó những phong tục và những nền văn hóa địa phương cần được đưa vào trong đời sống của Giáo Hội và gặp được những thể hiện của chúng trong phụng vụ và những nghi thức cử hành bí tích. Tiếc thay ước nguyện này chưa được thực hiện đầy đủ trong các cộng đồng Giáo Hội địa phương chúng ta. Chúng ta sẽ làm gì trong tương lai? Xin cám ơn.
| ||||