THÁNH LỄ GIỖ MÃN TANG ĐỨC CỐ
HỒNG Y PX. NGUYỄN VĂN THUẬN TẠI NHÀ THỜ CHÍNH TOÀ PHỦ
CAM
– HUẾ
(Lc 7,11-17 /
08-11-2005)
1. Kính thưa cộng đoàn,
Chúa Giêsu nói với bà góa thành Naïn vừa mất đứa
con trai duy nhất: “Thôi, bà đừng
khóc nữa”, rồi nói với cậu con một của bà đang nằm trong quan tài:
“Hỡi người bạn trẻ, Ta truyền cho con hãy trỗi dậy”.
Lời an ủi này, cử chỉ vực dậy này chạy xuyên suốt
cả cuộc đời Chúa Giêsu, xuyên suốt các sách Tin Mừng của Ngài.
Trọn cuộc sống, Chúa Giêsu đã đi ngang qua nhiều
cái chết thể xác và nhất là cái chết tinh thần của con người, để gieo
mầm sống và niềm hy vọng vào lòng người. Ngài không ngừng kêu gọi con
người trỗi dậy và bước đi. Ngài không ngừng khơi nguồn cho những giờ
sinh ra, cho những cuộc tái sinh, để con người sống xứng với phẩm giá
của mình.
Khi Ngài chữa lành bệnh tật, khi cho kẻ chết sống
lại, khi Ngài đàm đạo với ông Nicôđêmô, khi mời gọi con người tỉnh thức,
khi Ngài vào nhà ông Dakêu, khi Ngài không lên án người phụ nữ ngoại
tình, khi Ngài gọi các môn đệ là bạn hữu..., thì Chúa Giêsu gieo mầm
sống và nguồn hy vọng.
Khi Ngài xé rách định mệnh buồn bã ghì trói con
người hằng bao thế hệ trong cơ chế xã hội tôn giáo của Do thái, khi Ngài
loan báo Nước Trời đã đến, một vương quốc công bình - bác ái - tha thứ,
khi Ngài dạy con người biết quảng đại phục vụ cho nhau, khi Ngài bảo môn
đệ hãy thương yêu và cầu nguyện cho kẻ thù, thì Ngài đã phục sinh họ và
chứng tỏ Ngài là sự sống lại và là sự sống (Ga 11,25).
Ngài tố cáo một thứ tôn giáo chỉ chuộng hình thức
bên ngoài, coi trọng một số nghi lễ vô hồn và một số luật lệ vô nghĩa
bóp nghẹt sự sống, mà không đề cao tinh thần bên trong và lòng từ nhân
của Thiên Chúa. Ngài nói: “Luật
nghỉ ngày Sabat là vì con người, chứ không phải con người vì luật Sabat.
Con người làm chủ ngày Sabat” (Lc 6,5). Ngài bảo với các luật sĩ và
Pharisêu: “Các ông hãy đi học cho
biết câu này: “Ta muốn lòng thương xót chứ đâu cần lễ tế” (Mt 12,7).
Chúa Giêsu rao giảng Nước Trời là Tin Mừng Hy vọng:
người mù thấy được, người điếc nghe được, người què chạy nhảy được...;
Tin Mừng người gieo giống, mùa màng chín rộ; cây vả đâm chồi nở nụ; rượu
vui tiệc cưới; áo mới vào bàn tiệc; Tin Mừng một nhúm men làm dậy cả
thúng bột; hạt cải nhỏ xíu mọc thành cây lớn sum sê lá cành...
Sự sống, sự bình an và lòng từ tâm của Thiên Chúa
chan hòa trong đời thường. Vinh quang của Thiên Chúa không chỉ đậu lại
trong Đền thờ, trong các nghi lễ Phụng vụ, mà còn tỏa sáng nơi con người
là hình ảnh của Thiên Chúa, nhất là chói ngời nơi những người nghèo hèn,
nơi những kẻ bị tù đày bất công, nơi những người chịu khổ vì Đạo Thánh
Chúa... Những nơi đó đang thầm lặng làm nảy sinh mầm sống tin yêu và hy
vọng.
Trên các ngả đường, tận những hang cùng ngõ hẻm,
Ngài vực dậy những thân phận tối tăm bạc bẻo, vì phải kéo lê một cuộc
sống lầm than, hoặc vì bị khinh rẻ loại trừ, hay vì đang nhầy nhụa trong
tội lỗi.
Đối với vị ngôn sứ trẻ tuổi này, ai ai cũng có
tương lai, không ai bị chôn chặt trong một quá khứ buồn, dù là quá khứ
tội lỗi. Ai cũng có thể làm thánh. Có một người đã từng chối Chúa mà lại
trở thành thánh Phêrô; có một người đã từng đứng đường ăn sương mà lại
thành nữ thánh Mađalêna.
Đâu đâu Ngài cũng đem lại ánh sáng và niềm tin. Lúc
nào Ngài cũng mở rộng cánh cửa cứu thế. Một hứng thú sống, một niềm vui
sống chưa từng có nay đang đến với mọi người:
“Tôi đến để cho trần gian được
sống và sống dồi dào” (Ga 10,10),
“Tôi đến để cứu những gì đã hư
mất” (Lc 19,10).
Ngay cả trên thập giá khi hấp hối sắp tắt thở, Ngài
cũng không ngừng tạo nên sự sống mới, Ngài tiếp tục đem lại niềm hy vọng
cho những người chung quanh:
- cho các lý hình:
“Lạy Cha xin tha cho họ, vì họ
không biết việc họ làm” (Lc 23,34);
- cho người kẻ trộm thống hối:
“Hôm nay anh sẽ được ở với tôi
trên thiên đàng” (Lc 23,43);
- Ngài gửi gắm Mẹ Maria cho Gioan và trối phú Gioan
cho Mẹ: “Thưa Bà, đây là con của
Bà. Đây là mẹ của anh” (Ga 19,26-27).
2. Anh chị em thân mến,
Chúng ta đang tưởng niệm và cầu nguyện cho các Giám
mục và Linh mục trong Giáo Phận nhà đã qua đời, cách riêng Đức cố Hồng y
Phanxicô Xavie đã được Chúa gọi về từ 3 năm nay. Ngài là một khuôn mặt
lớn, không phải chỉ đối với Giáo Phận Huế chúng ta, đối với Giáo Hội
Việt Nam, mà còn đối
với Hội Thánh toàn cầu.
Ngài là họa ảnh sống động, phản chiếu con người
Chúa Giêsu là Đấng hằng yêu thương và đem niềm hy vọng đến cho mọi
người. Khẩu hiệu Giám mục của ngài là
“Vui mừng và Hy vọng” (Gaudium
et Spes), gồm 2 tiếng đầu của Hiến chế Giáo Hội trong thế giới ngày nay,
của Công đồng Vatican II.
Ngài luôn sống trong vui tươi và hy vọng. Ngài mãi
mãi là người lữ hành trên đường hy vọng. Sứ mạng ngài đeo đuổi suốt đời
là gieo niềm hy vọng trong mọi hoàn cảnh, mọi môi trường phục vụ.
Ngài là chứng nhân hy vọng. Xung quanh ngài chiếu
tỏa bầu khí vui tươi, bình an và hy vọng:
Khi ngài làm Cha phó Giáo xứ Phanxicô, hay làm Giáo
sư, rồi Giám đốc Tiểu Chủng viện, hoặc Tổng Đại diện Giáo Phận, khi làm
Giám mục Nha Trang, khi bị quản chế cầm tù, khi làm Chủ tịch Hội đồng
Giáo hoàng Công lý và Hòa bình.
Trong một bài giảng tĩnh tâm cho Đức Thánh Cha và
Giáo triều Rôma mùa Chay Thánh năm 2000, ngài nói:
“ngây ngất trước Chúa Giêsu là Thiên Chúa và là tất cả mọi sự của con
(Deus meus et omnia), con muốn cùng Chúa Giêsu trở thành nguồn hy vọng
trong khu vườn thế giới, như thi hào Charles Péguy nói: “Ta tự hỏi: làm
sao nguồn suối Hy vọng có thể mãi trẻ trung, tươi mát, sinh động...,
Thiên Chúa phán: “Hỡi dân tốt lành, điều ấy không khó lắm đâu... Nếu
nguồn Hy vọng ấy chỉ muốn dùng nước trong, để làm nên những nguồn mạch
tinh khiết, thì sẽ chẳng bao giờ tìm cho đủ nước trong toàn thể các tạo
vật của Ta. Nhưng chính còn với những nguồn nước đục ngầu, mà nguồn Hy
vọng ấy dùng để biến thành những nguồn nước trong. Và chính vì thế mà
chẳng bao giờ thiếu nước, cũng vì vậy mà nguồn ấy là Hy vọng... Đó chính
là bí quyết đẹp nhất trong khu vườn thế giới” (x. Chứng nhân Hy
vọng, tr. 47-48).
Cuộc đời chìm nổi của Đức cố Hồng y đã làm chứng
cho điều ngài ghi chép và rao giảng. Ngài đã từng làm cho nước ngầu đục
trở nên trong lành. Như tổ phụ Abraham, ngài luôn hy vọng, cả những lúc
hầu như tuyệt vọng. Thánh Phaolô nói:
“Mặc dầu không còn gì để trông
cậy, ông Abraham vẫn trông cậy và vững tin” (Rm. 4,18).
Chiếc tàu thủy chở ngài đi tù, ngài xem đó là ngôi
nhà thờ Chính tòa đẹp nhất của ngài (Chứng nhân Hy vọng, tr. 133).
Ngài coi nhà tù là môi trường mục vụ và truyền giáo
tuyệt hảo. Ngài nói: “Từ nay, các
tù nhân này, không loại trừ ai, đã là dân Thiên Chúa được trao phó cho
việc chăm sóc mục vụ của tôi. Tôi ở tù là do sự quan phòng của Thiên
Chúa, do ý muốn của Ngài. Tôi nói tất cả những điều này cho anh em tù
nhân Công giáo khác biết, và đã nảy sinh giữa chúng tôi một sự hiệp
thông sâu xa, một dấn thân mới. Chúng tôi được mời gọi cùng nhau trở
thành các chứng nhân hy vọng cho tất cả mọi người” (Ib. tr. 133).
Ngài không bao giờ oán hận một ai, nhưng lấy tình
thương mà cảm hóa lòng người. Ngài nói:
“Đêm nọ, một tư tưởng đến với tôi:
này Phanxicô, con còn giàu lắm, vì con có tình yêu của Chúa Kitô trong
tim, hãy yêu thương họ như Chúa đã yêu thương con!” (Ib. tr. 121).
Ngài nói tiếp: “Không có một tình
yêu mạnh mẽ, chúng ta không thể trở thành chứng nhân hy vọng được”
(Ib. tr. 115).
3. Anh chị em thân mến,
Kitô hữu phải là con người của hy vọng và gieo rắc
niềm hy vọng. Họ luôn hy vọng, vì biết mình từ đâu đến và đang đi về
đâu. Họ biết mình đến từ Thiên Chúa và trở về với Ngài, để mãi mãi chan
hòa trong sự sống và tình yêu của Chúa Ba Ngôi, cùng hiệp thông với Mẹ
Maria, với các Thiên thần và các Thánh. Họ biết mình được Chúa mời gọi
bước vào trời mới đất mới, vượt lên trên mọi mơ ước của con người, như
thánh Phaolô nói: “Đó là điều mắt chưa hề thấy, tai chưa hề nghe, lòng chưa từng nghĩ
tới, nhưng Thiên Chúa lại đã dọn sẵn cho những ai yêu mến Ngài” (1
Cr 2,9).
Ước gì mỗi người chúng ta lúc lìa trần có thể hân
hoan cảm tạ Chúa và hát lên bài đáp ca của Phụng vụ mùa Vọng lặp đi lặp
lại nhiều lần:
“Ôi Đấng khôn
ngoan thấm nhập cuộc đời con, từ thuở mới sinh cho đến giờ lâm tử, hằng
hướng dẫn con từng bước đi, trong từng chi tiết, nâng đỡ đời con cho đến
giây phút cuối cùng, bằng bàn tay dũng mạnh và với tình yêu thương ân
cần trìu mến”. Amen.
Ngày 22-10-2010, Thánh lễ mở
án phong chân phước ở cấp Giáo Phận cho Đức Cố Hồng Y PX.Nguyễn Văn
Thuận tại nhà thờ Đức Mẹ Maria Scala ở Rôma. Đây là Nhà thờ Hiệu tòa của
Đức Cố Hồng Y và chính tại bàn thờ này cách đây 9 năm là nơi ĐHY đã
thường dâng Thánh lễ.
|