Nhìn qua những chặng đường thi ca công giáo Việt Nam. Phần 2: Thời kỳ nở hoa.

Thứ sáu - 30/11/2012 20:52

-

-
Thế kỷ XX đưa thi ca Công Giáo rầm rộ đi vào thời kỳ nở hoa, mặc dù chưa phải là trăm hoa đua nở. Đồng cảm với người đồng thời, các nhà thơ công giáo cũng hăng say với thơ mới, mặc dầu vẫn còn nhiều lưu luyến với thơ truyền thống.
Nhìn qua những chặng đường thi ca công giáo Việt Nam.
Phần 2: Thời kỳ nở hoa



(Tiếp theo kỳ trước)

III- THỜI KỲ NỞ HOA
 
Thế kỷ XX đưa thi ca Công Giáo rầm rộ đi vào thời kỳ nở hoa, mặc dù chưa phải là trăm hoa đua nở. Đồng cảm với người đồng thời, các nhà thơ công giáo cũng hăng say với thơ mới, mặc dầu vẫn còn nhiều lưu luyến với thơ truyền thống. (Vì các tác giả thời kỳ này đã quen thuộc nhiều với độc giả, vậy nên ở đây xin được trình bầy cô đọng hơn).

ÔNG NGUYỄN HỮU BÀI

Ông Nguyễn Hữu Bài, tự Phước Môn (1863-1935) từ nhỏ được đào tạo để làm linh mục (cựu chủng sinh Pinang), nhưng rồi hoàn cảnh và Ý Trên đưa ông đến các chức vụ lãnh đạo cao nhất một thời. Dầu vậy, ông không xao lãng thi ca, trái lại thường hay sáng tác, ngâm vịnh.

Thi ca của ông được một người ái mộ là ông Nguyễn Thúc, nguyên án sát tỉnh Nghệ An, một nho sĩ đất Thần Kinh, sưu tập, chú thích và xuất bản dưới nhan đề Thơ Nôm Phước Môn (1959). Tập này gồm 69 bài Đường luật. Mới đây (1997) sách được tái bản ở Paris với phần bổ sung 32 bài không có trong tập trước, và do ông Thái Văn Kiếm đồ tựa.

LINH MỤC NGUYỄN VĂN THÍCH

Linh mục Giuse Maria Nguyễn Văn Thích (1891-1979), tự Sảng Đình, với bút danh gồm các chữ tắt J.M.T. hay J.M. Thích, là một nhân vật kỳ diệu của Giáo hội Việt Nam, kỳ diệu về ơn tòng giáo, ơn làm linh mục và ơn tông đồ trong nhiều lĩnh vực, nhất là văn chương, báo chí, thi ca.

Sự nghiệp thi ca của Cha Thích rất phong phú nhưng chỉ mới được sơ tuyển trong Sảng Đình thi tập với lời tựa của cụ Phước môn Nguyễn Hữu Bài, do nguyệt san Vì Chúa ấn hành (Huế tháng 7-8/1943).

Thi tập này gồm cả thơ sáng tác Việt ngữ và Pháp ngữ cùng với thơ dịch từ Pháp văn và Hán văn, tổng cộng 151 bài. Để đáp ứng lòng mong mỏi và ngưỡng mộ của số đông độc giả, một thừa kế của gia đình Cha Thích tại Hoa Kỳ đã có ý định tái bản thi tập này với phần bổ sung một số bài thơ của Sảng Đình mà nhà thớ Võ Long Tê đã sưu tầm từ sau năm 1943.

Sảng Đình còn là dịch giả Tuồng Phổ Liệt (Polyeucte) một trong những vở kịch hùng tráng của kịch tác gia danh tiếng Pháp Pierre Corneille. Nguyên tác bằng thơ Pháp ngữ đưực dịch giả chuyển thành thơ Việt nhưng có thêm những câu “nói lối” khiến cho vở kịch càng thêm linh động và có đặc tính “hội nhập văn hóa” Việt Nam.

HÀN MẠC TỬ

Đã có một cậu bé 13 tuổi làm kinh ngạc một giáo sĩ uyên bác là Cha Đắc-Lộ về những khả năng trí thức kì diệu của cậu , thì lại có một chàng trai 19 tuổi gây thán phục cho nhà thơ lão thành Phan Bội Chậu ngay ở chỗ sở trường nhất của Cụ, khi Cụ nhận được ba bài thơ Đường luật ký bút hiệu Phong Trần mà cụ đã họa vận ngay lại cồn tuyên bố: “Từ về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn quốc âm, song chưa được bài nào hay đến thế. Hồng nam nhạn bắc, ước ao có ngày gặp gỡ, tay bắt cười to một tiếng cho thỏa hồn thơ”.

Nhà thơ trẻ đó chính là Hàn Mạc Tử (1912-1940), tên thật là Phêrô Phanxicô Nguyễn Trọng Trí. Một nhà thơ trải nhiều đau khổ về tình cảm và nhất là cơn bệnh phong, nhưng vẫn giữ được nét thanh cao tâm hồn và cả sự trong sạch thể lý.

Các tác phẩm của Hàn Mạc Tử gồm:

 
■ Gái quê

■ Đau thương (còn có tên Thơ Điên)

■ Xuân như ý

■ Thượng thanh khí

Cẩm châu duyên, gồm một số bài thơ lẻ và hai vở kịch -Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội (đang viết dở)

Sáng tác cuối cùng của ông là một bài văn Pháp ngập tràn hứng thơ, nhan đề “La Pureté de1’âme” (Hồn Thanh Khiếl). Ông làm bài này trên giường bệnh có ý tặng các nữ tu săn sóc ông tại nhà thương phong Quy Hòa, rồi chính các nữ tu tìm thấy nó trong túi áo của ông khi tẩm liệm. Một bài văn kì diệu tặng các nữ tu mà phản ánh chính linh hồn Hàn Mạc Tử lúc về cùng Thiên Chúa.

PHẠM ĐÌNH TÂN

Ông Phạm Đình Tân (1913-1992), ra mắt làng thơ với bài “ Đá Vọng phu” đăng trên tuần báo Phong Hóa của Tự Lực Văn Đoàn (Hà Nội), khoảng năm 1933. Hồi ấy ông sống ở Hải Phòng, quen thân nhà thơ trứ danh Thế Lữ, và được Thế Lữ đề tựa cho tập thơ đầu của ông nhan đề: Tiếng Thầm. Tuy nhiên phải chờ khá lâu về sau Tiếng Thầm mới ra mắt độc giả (Hà Nội 1952), và khi tái bản (Sài Gòn I960) lại kèm thêm tập thứ hai nhan đề Lời Thiêng. Chính tập sau này mới thiên về các đề tài tôn giáo nhiều hơn. Sau đó không thấy ông cho ra đời tập thơ nào khác, có lõ vì quá bận với công việc sách báo, (tuần báo Vân Đàn do ông làm chủ nhiệm) và các hoạt động văn hoá khác (như Tinh Việt Văn Đoàn do ông chủ trương)…

XUÂN LY BĂNG

Xuân Ly Băng là bút hiệu của Đức Ông Gioan Baotixita Lê Xuân Hoa, Giám chức danh dự của Đức Thánh Cha, linh mục Tổng đại diện giáo phận Phan Thiết (sinh năm 1926).

Cùng với ơn gọi linh mục, “ ơn gọi thi nhân” (vocation poétique) đến rất sớm với ông -12 tuổi- rồi từ trên ghế chủng viện, ông đã cho đăng thơ của mình trên báo chí Công Giáo, và cho xuất bản hai tập thơ đầu tay: Thơ kinh (1956) và Hương kinh (1958).

Từ đó tác phẩm nối tiếp tác phẩm, dòng thơ Xuân Ly Băng tuôn tràn không bao giờ cạn. Theo hướng sáng tác của ông, ta có thể lược kể:

Hướng Thánh Kinh: Hiến chương Nước Trời; Phép lạ Phúc Âm; Mục lục Phúc âm; Huấn lệnh truyền giáo; Diễn từ chống biệt phái; Diễn từ cánh chung; và nhất là Bài ca Thương Khó. Đây là một thiên trường ca coi như cao điểm sáng tác của Xuân Ly Băng vươn lên cao điểm ơn cứu chuộc của Đức Kitô (1080 câu thơ).

Hướng tâm linh: Thơ kinh; Hương kinh; Trầm tư; Nỗi niềm; Thơ từ chuổi ngọc; Tình cõi mưa trăng; Một vùng châu lệ; Khúc hát ân tình; Dứt lời cầu nguyện; Sẽ nên thế nào…

Hướng vào đời: Quê hương và tình đạo; Xin những mảng chiều; Vang vọng từ xa; Gió hoàng hôn; Hoa vùng sa mạc…

Hướng lịch sử: Sáu bài sử thi…

Hướng giáo dục: Giáo lý diễn ca ; Tươi dòng sữa Mẹ…

Một nửa thế kỷ liên tục sáng tác, chia sẻ hồn thơ với một cộng đồng rộng rãi…Hai mươi bốn tác phẩm với cả ngàn bài thơ rút từ những diệu hứng của nền đạo hoặc xuất phát từ những rung động thẳm sâu của con tim: Đó là Xuân Ly Băng.

VÕ LONG TÊ

Ông Võ Long-Tê, bút hiệu Phương Tùng, sinh năm 1927, được ơn gặp gỡ Đức Kitô giữa 25 xuân xanh, từ đó trở nên môn độ của Ngài và chứng nhân cho tình thương Thiên Chúa, đặc biệt trong lĩnh vực văn chương, thi ca. Ông có khả năng nghiên cứu và sáng tác rất phong phú về cả bốn ngôn ngữ: Việt, Pháp, Hán, Nôm. Đến nay ông đã cho phổ biến trên năm chục công trình, chưa kể gần hai chục công trình khác còn chờ ra mắt độc giả. Riêng về thi ca xin lược kể:

Thơ Việt: Đại phá quân Thanh (kịch thơ, 1953); Khói tình (bi kịch thơ, Lê Thương phổ nhạc,
1968).

Thơ Việt và Pháp: Ánh súng trong đêm ( Lumière dans la nuit, 1966) ; Tiệc cưới (Festin de noces, 1966)

Thơ Pháp: Chant d’amour (1962); Symphonie orientale (1974); Version à l’unilé ; L’Univers sans barreaux (1992)

Thơ Pháp chuyển thơ Việt: Tendresses (Muôn vàn ái ân, dịch thơ Jean Marie Dancourt,
1966).

Thơ Việt chuyển thơ Pháp: Hàn Mạc Tử, Duyên Kỳ Ngộ (Heureuse rencontre des amoureux, Calgary 1992).

Nghiên cứu thi ca: Những thể thơ Việt Nam; Quan điểm lịch sử và thẩm mỹ về thơ lục bát; Contribution à l’étude d’un des premiers poèmes narratifs d’inspiration catholique en langue vietnamienne romanisée: Inê Tử Đạo Vãn -có bản tiếng Việt. Présence du Poète Nguyễn Dình Chiểu; Versions anciennes et modernes d’une légende étiologique vietnamienne.: La Montagne de L’Attente; Rimbaud et Vũ Hoàng Chương; Paul Claudel, le Vietnam et la Spiritualité thé ré sienne…

Và bảy công trình về Hàn Mạc Tử, chưa kể bộ Tổng Tập Thơ Văn Hàn Mạc Tử, nghiên cứu và chú thích sẽ xuất bản.

Như vậy Võ Long Tê chẳng những làm thơ, nghiên cứu thơ, lại cỏn cố gắng giới thiệu thi ca Việt Nam với quốc tế và du nhập tinh hoa thi ca quốc tế vào Việt Nam. Ông quả là “sứ giả” của thi ca Việt Nam với quốc tế vậy.

LÊ ĐÌNH BẢNG

Sinh năm 1942, Lê Đình Bảng lúc 12 tuổi đã làm một bài thơ lục hát dài 128 câu. Lớn lên vẫn tiếp tục nuôi dưỡng hồn thơ, sáng tác và phổ biến thơ qua báo chí, phát thanh nhưng mãi đến năm 1967 mới có tập thơ đầu tiên chào đời, nhan đề Bước chân người Giao Chỉ, tưởng nhớ những người Việt ra đi mở nước. Lại phải chờ đến năm 1994, khách yêu thơ mới được đọc tập thứ hai, nhan đề Hành hương, rồi đến Lời lự tình của bến trần gian và Qùy trước đền vàng. Ba tập này Hướng về tôn giáo, nối tiếp tập đầu về truyền kỳ sử ca, đủ nêu bật sự đóng góp của Lê Đình Bảng cho thi ca dân tộc và tôn giáo, với sự hưởng ứng của khách yêu thơ như được tỏ rõ qua “Đêm thơ Đình Bảng” tại Tòa Tổng Giám mục Huế (tháng 5-2000) và liên tiếp hai “Đêm thơ Đình Bảng” tại hội trường giáo xứ Đa Minh, Tp. Hồ Chí Minh, (tháng 8-2000)…

HAI NHÀ THƠ NỔI TIÉNG TỪ THỜI TIỀN CHIẾN ĐI VÀO THƠ TÔN GIÁO:

Đến đây chúng tôi xin được đề cập đến hai nhà thơ nổi danh từ thời tiền chiến, phút chót đi vào thơ Công giáo.

HỒ DZẾNH

Ông là một giáo hữu tân tòng mang thánh danh Paul Thérèse (1916-1981). Từ khi lãnh Bí tích Thánh tẩy tại Nhà thờ lớn Hà Nội ngày 23-3-1941, ông chưa bao giờ nghĩ đến thơ tôn giáo. Đột nhiên năm 1944 ông cho đăng trên tờ bán nguyệt san “Thanh Niên” (Nam Định), số 179 ngày 1-4-1944, bài “Thể chất” mà cùng với thời gian, nó đã được đánh giá như một kiệt tác về thơ tôn giáo. Đến Giáng sinh năm đó và Tết, ông xuất bản luôn tập Tác Phẩm Đầu Xuân tràn ngập văn tôn giáo giáo, mà đến sáu bài là của ông dưới nhiều bút hiệu khác nhau, nhất là bài “Lời nói đầu”, bài “Ý nghĩa đêm Noel: Jésus Christ”, bài “Thơ và Chúa”, bài “Hiu quạnh ”(lhơ) v.v… Chiều hướng tổng quát của tập văn đã khiến nhà nghiên cứu Võ Long Tê, trên nhật báo Xây Dựng trước 1975, coi Tác Phẩm Đầu Xuân như một “Tuyên ngôn Văn chương Công giáo Việt Nam”.

BÀNG BÁ LÂN

Trước đây tuy là người lương, Bàng Bá Lân (1912-1988) đã hoàn toàn thành công với bài thơ tôn giáo đầu tiên nhan đề “Đêm Giáng sinh”, đăng trên tuần báo Văn Dàn, số đặc biệt Giáng sinh năm 1960. Để viết bài đó, ông đã đọc trọn cuốn Jésus en son temps (Dức Giêsu trong lịch sử) của văn hào Daniel Rops. Ông đã rung động và những rung cảm của ông đã thành thơ, do đó mà bài thơ có sức truyền cảm mạnh mẽ.

Bàng Bá Lân còn là tác giả bài thơ “Cầu nguyện Đức Mẹ”, dịch giả bài thơ “Ma paix et ma joie” của Thánh nữ Thérèse de l’Enfant Jésus.

Ông còn sáng tác bài “ Tê-rê-sa, tôi rất cám ơn người” và cuối cùng là bài “Cảm hóa”, bộc lộ ý hướng của mình với Thiên Chúa tình thương. Qủa thật ông đã lãnh bí lích Thanh tẩy trên giường bệnh tại gia đình ngày 11 tháng 2 năm 1988 và về cùng Thiên Chúa hằng sống ngày 20 tháng 8 năm 1988.

CÁC TÁC GIẢ KHÁC

Đưa Kinh Thánh vào thơ Việt vẫn là mối thao thức lớn nhất của người làm thơ. Sau những nỗ lực của các tác giả Tống Viết Toại (Phúc âm diễn ca, 1956), Mai Lâm (Thánh Vịnh toàn lập, 1958), Long Giang Tử (cũng Phúc âm diễn ca, 1975), nay cùng một thời điểm, bốn linh mục cao niên cùng đóng góp những thi phẩm Kinh Thánh mà các ngài đã nghiền ngẫm cả một đời:

• Linh mục An Sơn Vị với các tác phẩm: Ngũ kinh, Thánh vịnh Thánh ca, Tân ước (1993- 1998)

• Linh mục Maria Duce Xuân Văn ( Tuy Hòa, Phú Yên) với cuốn Sứ Diệp Tình Thương diễn tả cuộc đời Chúa Cứu Thế qua bốn sách Tin Mừng (Nxh. Thuận Hóa, 1998) gồm 9768 câu thơ lục bát, xứng đáng với chiều kích bốn Phúc âm tổng hợp.

• Linh mục Giuse Đinh Cao Thuấn, với các tác phẩm Trường Ca Cứu Dộ – Ca Vang Lời Chúa, Đường Về Đất Hứa (1998-1999).

• Linh mục J.B. Cao Vĩnh Phan, với Trường Ca Dân Chúa, lài liệu giáo lý Thánh Kinh bằng Thơ lục bát viết theo Histoire Sainte des Petits Enfants của văn hào Daniel Rops.

Ở thế hệ kế tiếp, Trăng Thập Tự, tức linh mục Võ Tá Khánh, hăng hái tiến liênvới ba tác phẩm đầu: Trường Ca An-rê Phú Yên (1994) với 924 câu thơ làm sống lại vị lử đạo tiên khởi Việt Nam vừa được phong chân phước ; Chùm thơ vinh quy tặng Chị (1997) chào mừng ngày tuyên phong Tiến sĩ Hội Thánh cho vị thánh trẻ Teresa Hài Đồng Giê Su; và Thơ Thánh Gioan Thánh Giá lần đầu tiên dịch Việt ngữ (1998). Trăng Thập Tự còn cho in cuốn Góp nhặt thơ Công giáo Việt Nam (Nxb. Thuận Hóa 1999) trình bày một số bài thơ lẻ tẻ của các tác giả đăng trên báo chí…

Tiếp theo xin kể một nhà thơ đồng bệnh với Hàn Mạc Tử và muốn nuôi chí Hàn Mạc Tử: Nhà thơ Đơn Phương, tác giả Vườn Xuân Thánh, kịch thơ sáu hồi về khởi nguyên vũ trụ, và Quân Tiên Hội (Nxb. Văn Nghệ Tp. HCM., 1991), kịch thơ năm hồi mà ba hồi là bổ sung phần còn thiếu trong tác phẩm Quần Tiên Hội viết dở dang của Hàn Mạc Tử.

MÓN NỢ QUÁ KHỨ: VÃN, TUỒNG CỦA CÁC TÁC GIẢ VÔ DANH

Đến đây chúng la còn phải gợi lại món nợ lớn đối với tiền nhân: cả một kho vãn và tuồng đạo do các tác giả vô danh để lại mà ta không biết đặt vào thời kỳ nào. Vãn và vè thuộc loại thơ, tuồng thì kết hợp cả văn xuôi và thơ. Từ hai cuốn Đại Nam Việt Quốc Triều Sử Kỷ và Vãn và Tuồng, ca hai đều do Nhà In Tân Định (Sài gòn) ấn hành, giáo sư Nguyễn Văn Trung đã rút ra một hảng liệt kê 40 tập vãn và 20 vở tuồng.

Chỉ lướt qua nhan đề của mấy tập vãn như sau, đủ hình dung được cái bầu khí trong lành, vui tươi, nhân nghĩa, đạo đức mà mảng văn chương công giáo bình dân này tạo nên chung quanh lớp quần chúng hưởng thụ nó: Giáng Sinh vãn, Dức Chúa Bà Tự Tích vãn; Vãn Đức Dà ( vãn dâng hoa, phải chăng do cụ Cử Thiện?,..); Vãn Mân Côi; Thánh tổ tông Gia-Cóp vãn; Đa-vít vãn; Giu- đa vãn; Tô-bia vãn; Cê-ci-lia đồng trinh tử đạo vãn; Thánh An-tôn vãn; Thánh Vi-tô Tử đạo vãn; Thánh A-lê-xù vãn; Hoàng hậu Sa-ve vãn; Vãn cha Minh và lái Gấm (tập này của Paulus Của), vân vân và vân vân …

Cho đến nay, cứ mỗi khi tháng mười trở lại. Tháng Mân côi Đức Bà, những vần thơ tự thuở nào, như:

 
“Vườn Rosa bao quanh trái đất,
Cảnh thiên nhiên thật rất diệu huyền…”

lại sống lại trong lòng giáo hữu, ngân vang giữa giáo đường, tái tạo một hiệp thông đằm thắm giữa các thế hệ xưa và nay… Chúng ta đã thấy và đã tiếc vì khá nhiều mất mát trong mảng thi văn bác học, nhưng lại đưực hù đắp phần nào vì những dấu tích của mảng văn chương công giáo bình dân như trên…

TRƯỜNG HỢP ĐIỂN HÌNH: ĐỖ ĐÌNH THẠCH.

Sau cùng chúng tôi xin kết thúc bản lược trình này bằng một điển hình: Ông Phê-rô Đỗ Đình Thạch ( 1907-1970), con một gia đình quan chức bên lương, đi du học Pháp, đậu cử nhân sử học, viết báo, viết sách tiếng Việt và tiếng Pháp, kết thân với nhiều danh sĩ Pháp, như André Clide…Ông phải sớm hồi hương vì vấn đề tài chánh, nhưng chính trên đường về Việt Nam, giữa trời mây nước bao la, ông đã được lãnh bí tích Thánh tẩy (1932) với tên thánh bổn mạng là Phê-rô (Pierre) đồng nghĩa với tên riêng Thạch, do đó mà có bút hiệu Pierre Dỗ Đình. Hai tác phẩm của Jacques Maritain, triết gia công giáo thượng thặng, đã nuôi dưỡng tâm hồn ông trong chuyến đi “đổi đời” này.

Về nước, ông làm tổng thơ ký tòa soạn báo “Patrie Annamite” (Quê hương An nam), cho đăng tiểu thuyết Tiếng Đoạn Trường dịch lừ cuốn La Porte Etroite của A. Gide với tựa của Phạm Quỳnh trên báo Trung Bắc Tân Văn, viết bài cho Nam Phong và Bulletin de la Société d’Enseignement Mutuel du Tonkin.Sau chuyến đi Pháp lần thứ hai, ông về nước dạy triết học và văn chương Pháp tại Viện Đại Học Huế, sau cùng làm chủ bút tờ Đối thoại: cả một đời cho văn nghệ…

Đỗ Đình Thạch nổi tiếng nhất với thi phẩm Pháp ngữ Le Grand Tranquille (Đấng Thái Hòa) mà từ đất Pháp ông gởi về cho thân hữu nơi quê hương, đã được tiếp nhận hết sức nồng nhiệt và xuất bản rất trang trọng. Học giả Cung Giũ Nguyên nhân dịp giới thiệu văn học Việt Nam với trí thức Hoa Kỳ năm 1952 đã nhấn mạnh: “Trong Le Grand Tranquille, Đỗ Đình diễn ngâm thành thơ tuyệt diệu cuộc thảo luận nội tâm của một người Việt Nam lúc sắp trở lại đạo Công giáo”.Nhà bác học Pháp Maurice Durand khen ngợi: “Trong số những nhà thơ Việt Nam nổi tiếng ở Pháp, có PhạmVăn Ký (1916-1992) và Đỗ Đình Thạch được xem như một trong những thi nhân độc sáng và cầu toàn nhất.”. Còn dưới con mắt Võ Long Tê, Đỗ Đình Thạch là “một người đã giã từ đồi núi tuổi thơ để trèo lên những đồi núi tinh thần mà sống đạo, trước hết và trên hết là một nhà thơ của Nước Trời.

Và đó là điển hình của thi ca Công giáo Việt Nam hiện đại, nối tiếp những điển hình xa xưa như nữ sĩ Ca-ta-ri-na, thầy giảng Phan-chi-cô cựu hoà thượng, linh mục Lữ Y Đoan, thầy giảng Gio-an Thanh Minh v.v…

Xin kính chào và cảm ơn Quý vị.
 
---------------------

Bổ sunq về sách chữ nôm của qiáo sĩ Maịorica (phần trên đây)

Theo nhà nghiên cứu Vũ Văn Kính trong bài “Chữ Nôm Công giáo qua những tác phẩm của Majorica” (Tọa đàm tại Huế ngày 24/10/2000), bộ sách chữ Nôm của Majorica đến nay ở Việt Nam có ba mươi mốt tác phẩm, tất cả đã được chuyển sang chữ Quốc ngữ đối chiếu chữ Nôm. Tuy nhiên chưa có tập thơ nào. Vậy hẳn là còn phải tiếp tục tìm tòi?

Tác giả: Phạm Đình Khiêm

Nguồn tin: dongten.net

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập245
  • Máy chủ tìm kiếm22
  • Khách viếng thăm223
  • Hôm nay58,187
  • Tháng hiện tại753,806
  • Tổng lượt truy cập58,039,675
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây