Cựu Chủng Sinh Huế

http://cuucshuehn.net


Ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài trên văn hóa Việt Nam [4]

-

-

Truyền thống nghệ thuật Việt Nam mang tính ước lệ, biểu trưng nhưng do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, nhất là từ thời phục hưng với tinh thần đề cao giá trị con người, lấy con người làm chủ đề sáng tác, tả thực.
Ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài trên văn hóa Việt Nam [4]

 
PHẦN VII: SỰ ẢNH HƯỞNG VỀ NGHỆ THUẬT
 
Về lãnh vực nghệ thuật, chúng ta thấy, mặc dầu văn hóa và người Trung Hoa ngự trên đất nước Việt Nam hơn một ngàn năm qua nhiều thời kỳ nhưng hầu như không thấy để lại dấu ấn nào rõ nét từ âm nhạc – sân khấu – hội hoạ cho tới thời trang, điện ảnh,v.v… trong khi đó văn hóa phương Tây mới du nhập vào Việt Nam mấy thế kỷ gần đây nhưng thực sự đã ảnh hưởng đến văn hóa Việt Nam trên lãnh vực này khá rõ. Nó đã để lại những dấu ấn nghệ thuật ăn sâu vào trong đời sống của người Việt Nam mà nhiều khi ta không biết.
 
1. Nghệ thuật hội hoạ điêu khắc
 
Trong nghệ thuật hội hoạ - điêu khắc, văn hóa Việt Nam đã thực sự chịu ảnh hưởng và tiếp nhận từ nền hội hoạ - điêu khắc phương Tây rất nhiều như mang tính cách bút pháp tả thực và đã có những thể loại tranh sơn dầu, tranh bột màu có giá trị (Vd. Tranh sơn dầu và tranh bột màu xuất hiện ở phương Tây từ thế kỷ XV).
 
Truyền thống nghệ thuật Việt Nam mang tính ước lệ, biểu trưng nhưng do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, nhất là từ thời phục hưng với tinh thần đề cao giá trị con người, lấy con người làm chủ đề sáng tác, tả thực. Cho nên nghệ thuật hội hoạ Việt Nam cũng mang nhiều tính cách phương Tây, Ở các trường đại học, các trường mỹ thuật khoa hội hoạ điêu khắc mang tính hiện thực phương Tây đã được đưa vào chương trình giảng dạy từ lâu. Ngày nay, ở những thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh có rất nhiều phòng trưng bày, triển lãm tranh của nhiều hoạ sỹ trong và ngoài nước. Vào những năm 50 của thế kỷ XX này hội hoạ Việt Nam đã có những tác phẩm sơn dầu tuyệt tác của hoạ sỹ Ngô Ngọc Viễn, Trần Văn Cẩn,… Đây là kết quả của sự ảnh hưởng và giao lưu văn hóa với phương Tây.
 
2. Nghệ thuật sân khấu
 
Với bút pháp tả thực của nghệ thuật phương Tây lại thêm tính phân biệt rõ ràng các thể loại bi, hài kịch cũng đã xuất hiện trên sân khấu Việt Nam với thể loại kịch nói và tác động đến sự ra đời của nghệ thuật cải lương.
 
Vào những năm 20 cuối thể kỷ XX, Nam Bộ chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sớm nhất nên đã hình thành nghệ thuật cải lương, một sản phẩm của việc cải cách sân khấu hát bội truyền thống. Trong sân khấu cải lương, ảnh hưởng của bút pháp tả thực phương Tây, hát được giảm bớt thay vào đó là nói được tăng lên; các điệu bộ ước lệ, biểu trưng được giảm bớt và thay vào đó là các động tác giống như thật ngoài đời; phong cảnh đạo được chú trọng hơn.
 
Như vậy cải lương và kịch nói cũng là kết quả của sự ảnh hưởng và giao lưu văn hóa với phương Tây mà có đôi lúc người ta cứ tưởng như là văn hóa thuần tuý của mình.
 
3. Nghệ thuật âm nhạc
 
Song song với các nghệ thuật khác, đối với âm nhạc kể cả nhạc cụ của phương tây đã thực sự có chỗ đứng trong sinh hoạt đời sống văn hóa – xã hội Việt Nam. Nhất là những năm gần đây, âm nhạc và nhạc cụ phương Tây được công chúng Việt Nam đón nhận rất nồng nhiệt. Nó đã trở thành như một lĩnh vực sinh hoạt văn hóa trong đời sống cộng đồng. Đặc biệt, đối với giới trẻ thì âm nhạc phương Tây có thể nói được là một phần không thể thiếu đối với họ. Từ các thể loại như nhạc Jazz – Disco – Pop – Rock,… đều trở nên quen thuộc và phổ biến với giới trẻ Việt Nam. Các tác phẩm cổ điển của Môzart, Bethoven, Chopin,… cũng được người Việt Nam tiếp nhận cách trân trọng từ người thưởng thức cũng như người biểu diễn.
 
Ở các nhạc viện, các phân khoa nhạc hiện đại và nhạc cổ điển phương Tây đã được đưa vào chương trình giảng dạy từ lâu.
 
Âm nhạc ảnh hưởng của phương Tây hay còn gọi là tân nhạc phát sinh trong nền âm nhạc Việt Nam các thể loại mang tính phụng tự của Kitô giáo, nhạc ca khúc, nhạc sôlô, nhạc hoà tấu, nhạc kịch.
 
Tất cả những loại nói trên là kết quả của sự ảnh hưởng từ phương Tây.
 
4. Nghệ thuật điện ảnh
 
Cùng với sự du nhập của các lãnh vực nghệ thuật khác, điện ảnh cũng sớm có mặt ở Việt Nam. Lãnh vực nghệ thuật này là hoàn toàn của phương Tây, Việt Nam không có. Nó được manh nha vào năm 1879 do một người Anh tên là Eadweard Muybridge và đến năm 1895 thì anh em nhà August và Luois Lurminer, người Pháp phát minh thành hệ thống chiếu và được đưa ra trình diện ở Paris. Nghệ thuật điện ảnh ra đời từ đấy, không biết nó vào Việt Nam từ khi nào nhưng rạp chiếu bóng đầu tiên ra đời ở Việt Nam là rạp Pathe – Hà Nội vào năm 1920. Đối với Sài Gòn xưa, buổi chiếu phim đầu tiên cũng là đầu tiên ở Việt Nam được tổ chức vào khoảng cuối tháng 9-1898 trước dinh Tổng đốc chợ Lớn (nay là đường Lê Quang Liêm). Đến ngày nay thì điện ảnh không còn xa lạ đối với người dân Việt Nam nữa. Điện ảnh được xem như món ăn tinh thần của mọi thành phần trong xã hội.
 
5. Nghệ thuật nhiếp ảnh
 
Nhiếp ảnh là hình nghệ thuật mà người Việt Nam được tiếp cận do sự du nhập từ văn hóa phương Tây. Nhiếp ảnh ra đời do Etiên Marrey, người Pháp, phát minh máy chụp ảnh vào lúc đầu chỉ là chụp ảnh thông thường nhưng dần dần phát triển thành ngành nghệ thuật nhiếp ảnh lan rộng khắp thế giới. Cũng giống như điện ảnh, nhiếp ảnh du nhập vào Việt Nam không rõ lúc nào nhưng hiện nay ở các thành phố, thành thị và các gia đình khá giả việc chụp ảnh trong các dịp lễ hội đã trở thành như một nhu cầu, nhất là đối với giới trẻ.
 
Hiện Việt Nam đã có rất nhiều câu lạc bộ nhiếp ảnh và hội nhiếp ảnh chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp. Việt Nam đã có những nhiếp ảnh gia nổi tiếng.
 
6. Thời trang
 
Thuần tuý văn hóa Việt Nam, trang phục xưa cho tới thời Pháp thuộc, thường là áo tứ thân, yếm, guốc gỗ dành cho phụ nữ; khố, quần áo sớ, áo ngắn,… giày dành cho nam giới. Chất liệu của các trang phục nói trên thường là tơ tằm truyền thống và các chất liệu khác như đay, gai,… miễn làm sao càng bền càng tốt. Người Việt Nam xưa có một quan niệm về trang phục thật thiết thực “ăn lấy chắc, mặc lấy bền”. Nói vậy nhưng do khoa học và công nghệ phát triển cùng với sự hiện diện của văn hóa và con người phương Tây mà Việt Nam đã có nhiều sự đổi thay trong trang phục cách nhanh chóng.
 
Từ khi phương Tây vào Việt Nam thì cùng lúc trang phục kiểu phương Tây và thời trang của họ cũng bắt đầu hiện diện ở Việt Nam và từ từ được người Việt Nam tiếp nhận càng ngày càng mạnh mẽ từ quần Tây áo Veston, quần Jean, Jupe, giày dép,v.v… Đây thực sự là một sự tiếp nhận trọn vẹn chứ không phải là ảnh hưởng. Còn sự ảnh hưởng văn hóa phương Tây và kết quả đầu tiên của nó là vào những năm 30 của thế kỷ XX này chiếc áo dài cổ truyền Việt Nam đã được cải tiến thành áo dài tân thời ngày nay. Đây là bước mở cho quá trình phát triển thời trang ở Việt Nam. Đến nay thời trang đã trơ thành ngành học ở các trường mỹ thuật. Trên phương tiện thông tin đại chúng (truyền hình) có chương trình Thời Trang & Cuộc Sống. Ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh thường có biểu diễn thời trang.
 
Tất cả những điểm vừa trình bày trên đây là kết quả của sự ảnh hưởng văn hóa nước ngoài qua con đường chính trị, quân sự, thương mại và giao lưu. Những lãnh vực văn hóa này đã thực sự trở thành những nhu cầu không thể thiếu được đối với cộng đồng người Việt Nam ngày hôm nay. Văn hoá Việt Nam đã tiếp nhận và đang tiếp tục phát triển những lãnh vực này thành những phân ngành, những bộ môn nằm trong chương trình và hệ thống giáo dục – đào tạo chính qui manh tính hàn lâm thực sự và đồng thời cũng đưa những lãnh vực này vào trong những ngành nghề của cuộc sống.
 
***
PHẦN VIII: SỰ ẢNH HƯỞNG VỀ CÁC NGÀY LỄ HỘI
 
Do chịu ảnh hưởng và kế thừa nhiều nền văn hóa trong đó văn hóa Trung Hoa và phương Tây là chủ yếu, đã tạo cho Việt Nam một nền văn hóa với nhiều lễ tết khác nhau mang nhiều nội dung khác nhau. Ở đây chúng ta chỉ tìm hiểu những ngày lễ tết khá nổi bật và phổ biến trong năm có nguồn gốc từ hai nền văn hóa lớn này.
 
Sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa để lại cho văn hóa Việt Nam một số lễ hội đặc biệt như sau.
 
1. Tết Nguyên Đán
 
Ăn theo lịch âm, vào ngày mồng 1 tháng Giêng gọi là Tết; tết là do người Việt Nam đọc trại từ chứ Tiết. Theo lịch sử Trung Hoa thì lịch Âm có từ đời nhà Hà và lấy tên 12 chi đặt cho 12 tháng; tháng đầu là tháng Dần tức tháng Giêng được chọn làm tháng đầu năm và người ta ăn Tết vào ngày đầu của tháng Dần. Về sau nhà Ân thay đổi lấy tháng Sửu làm đầu năm, đến thời nhà Chu lại lấy tháng Tý nhưng đến thời nhà Tần lại lấy tháng Hợi và đến thời nhà Hán Vũ Đế lại đổi lại tháng Dần và được cố định từ đó đến nay.
 
Như vậy Tết Nguyên Đán mà Việt Nam có bây giờ có nguồn gốc sâu xa từ Trung Hoa. Nó là kết quả sự ngự trị của văn hóa Trung Hoa trên đất nước Việt Nam suốt cả ngàn năm.
 
2. Lễ Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng)
 
Theo Phật giáo, nguồn gốc của lễ Thượng Nguyên như sau: tất cả những ngày mồng Một và ngày Rằm mỗi tháng đều được coi là ngày của Phật. Trong những ngày mồng Một và ngày Rằm Phật tử tăng ny có bổn phận làm lễ cúng Phật, đi lễ chùa tụng kinh. Đúng ra người ta phải lấy ngày mồng Một tháng Giêng làm lễ Thượng Nguyên mới phải vì đây là ngày đầu năm nhưng ngày này trời về đêm lại quá tối nên mới trọn ngày Rằm tháng Giêng vì đây là Rằm đầu tiên. Phật tử đi lễ chùa tụng kinh niệm Phật như là kể lại các sự tích của Phật và chư vị Bồ Tát. Người Phật giáo tin rằng trong ngày rằm Đức Phật sẽ giáng lâm trước các chùa để chứng độ lòng thành của Tăng Ny Phật Tử. Tuy nhiên người Việt Nam thuần tuý thờ ông bà, tổ tiên vì yêu mến sự thiện cũng như ảnh hưởng và đã lấy ngày này để cúng tỏ lòng biết ơn ông bà tổ tiên đồng thời cũng để tỏ lòng biết ơn Đức Phật, Thổ Công,…
 
Như vậy nguồn gốc của lễ Thượng Nguyên là từ đạo Phật tức là Trung Hoa đưa sang và người Việt Nam đã tiếp nhận rồi làm thay đổi từ từ cho đến ngày nay đã thành phổ biến đối với tất cả những ai theo đạo ông bà ở Việt Nam.
 
3. Tết Đoan Ngọ (5-5 Âm lịch)
 
Cũng như những ngày lễ khác, người Việt Nam đã bắt chước người Trung Hoa ăn Tết Đoan Ngọ từ thời rất xa xưa.
 
Về sự tích tết Đoan Ngọ, thực ra ban đầu đây chỉ là ngày người dân làm lễ để đánh dấu một thời tiết mới, mừng sự trong sáng quang đãng của khí trời nhưng về sau để cho ngày này thêm phần ý nghĩa tín ngưỡng – tôn giáo, người ta kỷ niệm luôn ngày Khuất Nguyên tự vẫn. Về sau ngươi ta kỷ niệm luôn sự tích Lưu – Nguyễn, hai người đi hái lá thuốc lạc vào cõi thiên thai.
 
Khuất Nguyên làm chức tả đồ nước Sở dưới triều Hoài Vương thời Thất Quốc bên Trung Hoa (307 – 246 TCN). Ông là người có tài, liêm chính hay ngăn cản nhà vua. Sau khi vua Hoài Vương qua đời Tương Vương lên ngôi và thường bị Khuất Nguyên can ngăn khi làm việc chẳng hay nên Tương Vương bắt Khuất Nguyên đi đày. Khuất Nguyên làm bài thơ Hoài Sơn rồi buộc đá vào mình nhảy xuống sông Mịt Loan tự tử khi đi qua đó, hôm đó nhằm ngày 5 tháng 5 âm lịch. Nghe tin đó vua rất ân hận thương tiếc cho Khuất Nguyên và làm cỗ đưa ra bờ sông cúng Khuất Nguyên. Cũng xong vua bỏ lễ xuống sông nhưng tôm cá ăn hết sau đó Khuất Nguyên hiện về nói nếu sau này còn cúng thì khi bỏ lễ xuống sông nhớ gọi lại lấy dây buộc chặt khỏi cá tôm ăn hết. Từ đấy về sau cứ ngày mồng 5 tháng 5 là dân chúng khắp nơi làm cỗ đưa ra các bờ sông để cúng Khuất Nguyên và đến ngày nay cũng thế. Theo sự tích này, ở Việt Nam ngày nay kỷ niệm hay làm giỗ Khuất Nguyên không phải là chủ yếu trong tết Đoan Ngọ. Dân Việt Nam sáng tạo ra nhiều tập tục phù hợp với những sự tích và rất thực tế như giết sâu bọ, hái thuốc vào giờ ngọ, tắm sông vào giờ ngọ… Đến ngày này học sinh đi tết thầy cô giáo, bệnh nhân đi tết thầy lang, con rể đi tết ông bà,… và có giỗ cúng gia tiên.

Tết Đoan Ngọ đã đi vào cuộc sống của người Việt Nam từ xa xưa và nay có vẻ như càng ngày càng lớn mạnh hơn. Tuy nhiên cách thức ăn tết này lại rất khác nhau, nó hầu như tuỳ thuộc vào tín ngưỡng, tôn giáo, địa phương.
 
4. Tết Trung Thu
 
Tết Trung Thu còn được gọi là tết trông trăng và có khi lại gọi là tết trẻ con vì người ta thường sắm nhiều đồ chơi cho trẻ trong những ngày này.
 
Tết Trung Thu có từ thời Đường Minh Hoàng; tích truyền rằng vào đêm rằm tháng Tám nằm mơ thấy đạo sỹ đưa lên cung trăng chơi nhà vua đăm mình trong cảnh đẹp thần tiên lộng lẫy. Tan giấc mộng, vua nuối tiếc cảnh trăng thu ở cung trăng bèn đặt ra tết Trung Thu để về sau vào ngày đó ngắm trăng, ngâm vịnh. Bắt đầu từ triều đình rồi phổ biến trong toàn dân và sau đó nó theo chân của những đạo quân sang xâm chiếm Việt Nam và trở thành một ngày Tết như của người Việt Nam vậy.
 
Ngày nay, Tết Trung Thu càng ngày càng in đậm vào đời sống dân Việt Nam không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng nào. Nó đã được biến đổi theo tính cách của người Việt Nam và rất gần gũi với mọi người dân.

Trên đây là những ngày lễ tết khá phổ biến mà văn hóa Việt Nam đã kế thừa từ nền văn hóa Trung Hoa. Ngoài ra còn có những ngày lễ tết khá quen thuộc và phổ biến khác nữa như lễ Vu Lan, tết Thanh Minh,… mà ở đây không thể trình bày chi tiết.
 
Cùng với sự ảnh hưởng, chúng ta không thể bỏ qua sự ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đối với văn hóa Việt Nam trong phạm vi những ngày lễ tết. Dưới đây là một số ngày lễ tết của phương Tây đưa đến cho văn hóa Việt Nam.
 
Trước hết là tết Dương lịch, ngày Tết này thuộc là tết cổ truyền của phương Tây. Nhưng do tính cách hội nhập toàn cầu và sự ảnh hưởng mạnh mẽ của lịch tây mà Việt Nam cũng đã ăn Tết này theo phương Tây. Tuy nhiên người Việt Nam ăn tết này không lớn lắm, chỉ có ở học đường, công sở nhà nước và tầng lớp công nhân viên mới ăn tết này thôi vì họ được hưởng quyền lợi (nghỉ làm nhưng lại được hưởng lương trong ngày này).
 
Sau tết Dương lịch là lễ Noel, song hành với sự du nhập của Kitô giáo lễ Noel đã được tổ chức ở Việt Nam từ những năm đầu khi các nhà truyền giáo có mặt. Nhưng trước đây lễ Noel mang duy nhất một tính chất tôn giáo dành riêng cho các Kitô hữu. Gần đây, khi Việt Nam giao lưu văn hóa, mở rộng quan hệ với phương Tây và tiếp nhận nền văn minh từ phương Tây vào thì lễ Noel, ngoài ý nghĩa tôn giáo, đã trở thành lễ hội cho cộng đồng nhất là đối với giới trẻ và dân thành thị.
 
Ngoài hai lễ tết này ra còn có những ngày khác nữa mà những năm gần đây rất được nhiều người quan tâm như ngày 14 tháng 2; 8 tháng 3; 1 tháng 4; 1 tháng 5 ;…
 
Trên đây là những ngày lễ tết tương đối quen thuộc với văn hóa Việt Nam do ảnh hưởng của nền văn hóa Tây phương.
 
Tóm lại, hai nền văn hóa Đông – Tây, đã để lại những dấu ấn rõ nét trên lãnh vực lễ hội trong văn hóa Việt Nam và những dấu ấn này có lẽ chẳng bao giờ mất đi nhưng sẽ được phát triển mang tính chất Việt Nam hơn. Điều này còn phụ thuộc vào cách tiếp nhận của cộng đoàn.
 
THAY LỜI KẾT
 
Nền văn hóa Việt Nam đã được thừa hưởng và chịu sự chi phối của nhiều nền văn hóa lớn từ nước ngoài trong nhiều lãnh vực khác nhau, mà trên đây chúng ta vừa tìm hiểu được phần nào sự ảnh hưởng đó qua hai nguồn văn hóa chính, đó là Trung Hoa và Tây phương. Ngoài hai nguồn này, văn hóa Việt Nam còn chịu sự ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa khác như Ấn Độ, Campuchia, Nga,… trong nhiều lãnh vực khác nhau như chính trị, kinh tế, quân sự, tư tưởng,… Bài này chỉ như một gợi mở cho những ai có nhiệt huyết muốn đào sâu văn hóa dân tộc, góp phần vào việc bảo tồn và phát triển những gì là tinh hoa của văn hóa Việt Nam.

Tác giả: Hoàng Thiên, OP.

Nguồn tin: catechesis.net

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây