Cựu Chủng Sinh Huế

http://cuucshuehn.net


Ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài trên văn hóa Việt Nam [2]

-

-

Hậu bán thế kỷ XVII các nhà truyền giáo người Tây Ban Nha, Ý, Pháp sang truyền giáo tại Việt Nam thì khó khăn họ gặp phải đầu tiên là vấn đề ngôn ngữ. Vì thế, với sự góp công to lớn của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và một số giáo sĩ khác, họ đã dùng mẫu tự Latinh, ...
Ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài trên văn hóa Việt Nam [2]


 
 
PHẦN II: SỰ ẢNH HƯỞNG VỀ NGÔN NGỮ
 
Tiếng Việt ngày nay chịu ảnh hưởng khá lớn từ hai dòng chính là Trung Hoa và Tây Âu
 
I. TRUNG HOA
 
Ngay từ đầu công nguyên, từ khi có sự đô hộ phương Bắc, tiếng Hán đã được sử dụng ở Giao Châu với tư cách một sinh ngữ. Người Hán muốn đồng hóa tiếng nói của dân tộc Việt, nhưng tiếng Việt vốn đã có cơ sở vững vàng từ trước vẫn tiếp tục tồn tại. Tuy nhiên, trải qua hàng ngàn năm, một số lẻ tẻ từ Hán thường dùng đã được người Việt vay mượn để lấp chỗ thiếu hụt trong tiếng Việt như: buồng, buồn, muộn, mây, muỗi, đục, đuốc,… Cuối thời đô hộ, người Hán mở nhiều trường học, văn ngôn Hán được truyền bá rộng rãi cùng với kinh, sử, tử, tập. Sang thời tự chủ, tiếng Hán và chữ Hán vẫn được các triều đại phong kiến Việt Nam tiếp tục sử dụng trong cơ quan hành chính, trường học, khoa cử cũng như trong sáng tác văn chương. Nhưng lúc này tiếng Hán đã mất tính cách là một sinh ngữ; tiếng Hán không được đọc theo âm Hán của người Hán. Người Việt đã tạo ra âm Hán Việt là cách đọc chữ Hán của riêng người Việt trên địa bàn Việt Nam. Âm Hán Việt đã tạo điều kiện để chuyển tải hàng loạt từ Hán du nhập vào tiếng Việt. Những từ này có thể giữ nguyên nghĩa, cũng có thể chuyển đổi nghĩa theo hướng Việt hóa.
 
Nhiều từ biểu thị những khái niệm trừu tượng của các phái Nho, Phật, Lão trong tiếng hán được người Việt vay mượn để lấp khoảng trống thiếu hụt trong ngôn ngữ của mình như pháp, thân, sắc, không, tưởng, niệm, tâm, tính, hữu, vô, thiên, địa, nhân, lễ, nghĩa, trí, quân, thần, phụ, tử, lễ, nhạc, phong, hoa, tuế, nguyệt,… và những từ liên quan đến văn hóa như: bút, bảng, phấn, sách, khoa, trường. Trong trước tác thư tịch và sáng tác văn học, hiện tượng vay mượn chữ Hán trở thành một thói quen và nhu cầu, đồng thời cũng là khả năng. Số lượng từ Hán Việt đi vào tiếng Việt ngày một nhiều và dần dần có cả từ song tiết như trượng phu, trường ốc, thanh nhàn, tiên sinh, khoa mục, quốc gia, thành thị, quân tử, giang sơn, thế giới, phú quý, công danh, văn chương, sự nghiệp, tiêu dao, an nhàn, phồn hoa, trung dung, đồng bào, thiên hạ, nhan sắc,…
 
Vào những thế kỷ cuối cùng, các nước châu Á bắt đầu chịu ảnh hưởng của tư tưởng tư sản châu Âu qua cửa ngõ Nhật Bản. Người Nhật đã dùng chữ Hán trong văn tự của họ để phiên dịch các khái niệm của châu Âu, sau đó người Hán lại đọc các từ đó theo âm Hán và người Việt Nam lại đọc các từ này theo âm Hán Việt, ví dụ như các từ: dân chủ, cộng hòa, giác ngộ, giai cấp, kinh tế, chính trị, xã hội, cách mạng, quần chúng, quyền lợi, tư sản,…
 
Từ đầu thế kỉ XX và đặc biệt sau Cách mạng tháng Tám 1945, những từ này đã ồ ạt đi vào tiếng Việt cùng với những từ Hán Việt để tạo thành những từ riêng của mình như đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn, đại bác, phi công, náo động, thiếu tá, trung tá,…
 
Sau khi âm Hán Việt đã hình thành, trong tiếng Việt vẫn có những biến đổi ngữ âm. Những biến đổi này có thể tác động vào một bộ phận tự Hán Việt, nhất là những từ sinh hoạt, làm cho những từ này phát sinh ra âm mới như: gan, gương, dừng, vốn, vạch,… Những từ này cũng có những nét ngữ nghĩa và phong cách riêng khác với từ Hán Việt và thường được gọi là từ Hán Việt Việt Hóa.
 
II. TÂY ÂU
 
Hậu bán thế kỷ XVII các nhà truyền giáo người Tây Ban Nha, Ý, Pháp sang truyền giáo tại Việt Nam thì khó khăn họ gặp phải đầu tiên là vấn đề ngôn ngữ. Vì thế, với sự góp công to lớn của giáo sĩ Alexandre de Rhodes và một số giáo sĩ khác, họ đã dùng mẫu tự Latinh, có bổ sung thêm các dấu phụ để ghi âm tiếng Việt; và thứ chữ đó được gọi là chữ Quốc ngữ. Hơn nữa họ còn soạn nhiều cuốn từ điển như Việt – Bồ, Bồ - Việt, Việt – Bồ – La, nhờ đó người Việt có thể học chữ quốc ngữ dễ dàng hơn nhiều so với chữ Nôm trước đó. Vì dễ học, dễ nhớ nên chữ Quốc ngữ ngày càng được nhiều người học và nó đã góp phần rất lớn trong việc phổ cập giáo dục và nâng cao dân trí của người Việt Nam lúc bấy giờ. Kết quả là nhiều tác phẩm bằng chữ Quốc ngữ đã ra đời và đến năm 1856 khoa báo chí bằng tiếng Việt được hình thành. Tờ báo đầu tiên do Ernest Potteaux làm chánh tổng tài được phát hành, số đầu tiên ra ngày 15-01-1865. Tờ báo này được gọi là Gia Định báo.
 
***
PHẦN III: SỰ ẢNH HƯỞNG VỀ GIÁO DỤC
 
I. ẢNH HƯỞNG CỦA TRUNG HOA
 
Trong thời gian nghìn năm đô hộ giặc Tàu, đất nước ta đã chịu rất sâu đậm trên nền giáo dục, cả về giáo dục học đường lẫn giáo dục gia đình. Nói đúng hơn, về nền giáo dục của nước ta chịu ảnh hưởng chủ yếu của nền giáo dục tam giác: Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo, đặc biệt hơn là Nho giáo. Sau đây là đôi nét về sự ảnh hưởng của Tàu trên nền giáo dục gia đình Việt Nam.
 
1. Giáo dục gia đình
 
Theo truyền thống cổ truyền, dân tộc ta sống theo chế độ gia tộc mẫu hệ, tức là người con sinh ra chỉ biết có người mẹ mà ít quan tâm đến người cha, và người cha không có quyền gì đối với vợ con cả. Tuy nhiên chế độ này ngày nay hầu như đã mất hẳn, và thay vào đó là chế độ phụ hệ. Theo các nhà sử học Việt Nam, chế độ phụ hệ là do giáo lý Khổng – Mạnh truyền sang. Chế độ phụ hệ là tập tục cha truyền con nối. Người con sinh ra là phải lấy theo họ cha, và xem họ hàng bên cha là họ nội, họ hàng bên mẹ là họ ngoại.
 
Từ chế độ phụ hệ đưa đến chế độ phụ quyền, nghĩa là nam tôn nữ ty, trọng nam khinh nữ. Người đàn ông nắm quyền làm chủ gia đình, còn phụ nữ chỉ phụ thuộc. Chế độ này ảnh hưởng nhiều nhất trong tầng lớp quan lại thượng lưu thời xưa. Còn trong thời đại hôm nay, chế độ này ảnh hưởng rất ít vì một phần do tiếp xúc với lối sống tự do bình đẳng của phương Tây, cộng thêm sự trở lại chế độ Mẫu hệ truyền thống, nên các gia đình hầu như đã tiếp nhận và dung hòa giữa các chế độ với nhau và đưa ra một chế độ bình đẳng bình quyền như hôm nay. Họ quan niệm “Thuận vợ thuận chồng tát bể đông cũng cạn”.
 
Việc giáo dục gia đình trong Nho giáo có một vị trí rất quan trọng. Mạnh tử nói: “Thiên hạ gốc ở nước, nước gốc ở nhà, nhà gốc ở thân mình” và “nhà mình không thể dạy mà dạy được người ta điều không có. Trị quốc, Bình thiên hạ làm được hay không phụ thuộc vào việc tề gia”,… Như vậy, việc tề gia trở thành vấn đề quốc sách chứ không còn là việc của cá nhân hay của một gia đình, một dòng họ nữa.
 
2. Giáo dục hiếu đễ
 
“Con có hiếu với cha mẹ, em kính nể anh chị được coi là đức tính quí báu nhất, là tình cảm tất yếu, tự nhiên của con người”. Chữ hiếu đi liền với chữ trung. Chữ tình phải nhẹ hơn chữ hiếu. Mặc dù đạo hiếu quá khắt khe, có phần độc đoán, song có những điểm đáng trân trọng, giữ gìn. Và chính những điểm đó vẫn còn đọng lại trong nền giáo dục gia đình Việt Nam hôm nay.
 
“Con cái phải có trách nhiệm nuôi dưỡng, kính trọng ông bà, cha mẹ, luôn luôn làm những điều thiện để cha mẹ được vui lòng”. Khổng Tử coi việc con cái nuôi nấng cha mẹ mà không kính thì không khác gì nuôi súc vật.
 
“Thờ phụng tổ tiên là biểu hiện lòng hiếu thảo của con cháu, các thế hệ sau đối với người đã khuất, sự thờ phụng đó là để tỏ lòng tưởng nhớ, biết ơn đối với cha ông, gìn giữ và phát huy những di sản, thanh danh tốt đẹp của tiên tổ”.
 
Ngoài ra con cái trong gia đình phải “tiên học lễ, hậu học văn”. Trước hết phải biết kính trọng, lễ phép sau đó mới học chữ nghĩa. Hơn nữa quan điểm Tam Cương Ngũ Thường trong Nho giáo phần nào vẫn còn ảnh hưởng trong giáo dục gia đình Việt Nam hôm nay.
 
3. Giáo dục đối với người phụ nữ
 
Ngày xưa xã hội phong kiến đòi buộc người phụ nữ vào chuẩn mực “tam tòng tứ đức”. Tam tòng có nghĩa là: người phụ nữ suốt đời chỉ là người phụ thuộc: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử (ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết ở với con). Nền giáo dục này hầu như không có một chút gì ảnh hưởng trong nền giáo dục của xã hội hôm nay. Song bên cạnh đó, tứ đức lại là mặt giáo dục tích cực vẫn còn đọng lại và đòi buộc người con gái cần phải có: Công là nết làm ăn cần cù, thức khuya dậy sớm, tài đảm đang nội trợ của người con gái khi còn ở nhà, của người phụ nữ với địa vị làm vợ, làm dâu, làm mẹ. Dung là sự chăm chút mộ cách kín đáo nhan sắc của mình sao cho dễ coi, duyên dáng. Ngôn là giữ lời ăn tiếng nói dịu dàng, nhỏ nhẹ khiêm tốn, không khoe khoang, cười đùa ầm ĩ. Hạnh là phẩm chất đạo đức, sự chung thủy với chồng được coi là tiêu chuẩn cao nhất về đạo đức của người con gái.
 
II. ẢNH HƯỞNG CỦA TÂY ÂU
 
Khi trình bày về sự ảnh hưởng văn hóa Tây phương trên lãnh vực giáo dục học đường Việt Nam, chúng ta thấy sự ảnh hưởng sâu đậm đó là hệ thống giáo dục của Pháp. Hầu như hệ thống giáo dục Việt Nam hiện đại đều chịu ảnh hưởng của Pháp.
 
Sau khi Pháp thực sự đô hộ trên đất Việt (từ 1858 – 1945), đã áp đặt một hệ thống giáo dục của Pháp lên nền giáo dục Việt Nam. Và mãi tới hôm nay, tuy hệ thống giáo dục nước ta phần nào có sự thay đổi về nhiều mặt: hình thức tổ chức, bằng cấp, chương trình học, thi cử,… nhưng sâu xa vẫn bị ảnh hưởng hệ thống giáo dục của Pháp thời ấy.
 
Sau đây là một số điểm đơn cử:
 
1. Về các cấp học và danh xưng
 
- Bậc Ấu học gồm 2 lớp: lớp Đồng Ấu và lớp Dự Bị tương đương với 2 lớp: lớp Mầm Non và lớp Vỡ Lòng ngày nay.

- Bậc Tiểu Học: tương đương với trường cấp I ngày nay, trong Nam có thời gọi đệ tam cấp, ngày nay cũng có nơi lấy lại danh xưng Trường Tiểu Học.
 
- Bậc Trung Học: tương đương với trường cấp I và cấp II hay là trường Phổ Thông Cơ Sở và trường Phổ Thông Trung Học hiện nay.
 
- Bậc Đại Học: ngày nay cũng lấy lại y như vậy
 
2. Ảnh hưởng trên hình thức thi cử và bằng cấp
 
Theo sử sách cho thấy, việc thi cử ở nước ta trong thời kỳ đô hộ của giặc Tàu cũng như trong thời kỳ vua chúa quan quyền chỉ có ba kỳ thi chính yếu: Thi Hương, thi Hội và thi Đình. Nhưng đến thời Pháp thuộc, thời kỳ khởi đầu cho nền giáo dục hiện đại của Việt Nam, hệ thống giáo dục được bước sang một hình thức mới, do đó việc thi cử cũng thay đổi theo. Tức là các kỳ thi được áp dụng từ Ấu học cho đến Đại học. Sau đây xin trình bày sơ lược một số kỳ thi:
 
- Kỳ thi lấy bằng Sơ Học Yếu Lược
- Kỳ thi lấy bằng Tiểu Học
- Kỳ thi lấy bằng cao đẳng Tiểu Học có thời đổi là bằng Thành Chung
- Kỳ thi vào Đại Học
 
Tuy nhiên các kỳ thi này hiện nay vẫn được sử dụng nhưng có một số bổ sung và thay đổi cho phù hợp với thời đại. Chẳng hạn chia cấp: cấp I, cấp II, cấp III tương đương với Tiểu học và Trung học thời Pháp.
 
- Học hết cấp I cũng có kỳ thi lấy bằng Tiểu học để bước vào học chương trình Phổ thông Cơ sở
 
- Hết cấp II, có kỳ thi tốt nghiệp Phổ thông Cơ sở, nếu đậu mới được dự thi chuyển cấp, tức là vào học chương trình Phổ thông Trung học
 
- Hết chương trình Phổ thông Trung học, có kỳ thi lấy bằng tốt nghiệp Phổ thông Trung học hay gọi là bằng Tú Tài. Đậu kỳ thi này mới được dự thi Đại học
 
- Hết chương trình Đại học, có kỳ thi lấy bằng cử nhân
 
- Sau Đại học, có kỳ thi lấy bằng Thạc sĩ và Tiến sĩ
 
***
PHẦN IV: SỰ ẢNH HƯỞNG TRÊN VĂN CHƯƠNG
 
I. ẢNH HƯỞNG CỦA TRUNG HOA
 
Hơn 10 thế kỷ dưới chế độ phong kiến, văn hóa Trung Hoa trong đó có chữ Hán, phần nhiều phổ biến ở tầng lớp trên của xã hội như vua chúa, quan lại, nho sĩ, và quí tộc. Do đó văn hóa tam giáo từ Trung Hoa du nhập vào văn hóa Việt Nam qua từng thành phần trên một cách sâu đậm hơn tầng lớp bình dân. Hiện tượng này không những chỉ thể hiện trong đời sống gia đình, xã hội và bộ máy nhà nước, mà còn phản ánh trong đời sống văn học, nhất là những tác phẩm Hán văn; văn hóa tam giáo biểu hiện khi sâu đậm khi bàng bạc qua dòng văn học chữ Hán, nhưng ít có những tác phẩm trường thiên, phần nhiều là những bài thơ, bài kịch, bài kệ,… thông qua thi pháp Trung Hoa với các thể thơ cổ phong, đường luật. Tầng lớp tri thức Việt Nam hội nhập văn hóa Tam giáo vào các tác phẩm của mình.
 
1/. Ảnh hưởng của Nho giáo trong văn thơ: Có Đoạn trường tân thanh, Lục Vân Tiên, thơ của Nguyễn Công Trứ,…
 
2/. Ảnh hưởng Phật giáo trong văn thơ: Có Cung oán ngâm khúc, Quan Âm Thị Kính,…
 
3/. Ảnh hưởng của Lão giáo trong văn thơ: Có Thơ Nhàn, Bích câu kì ngộ.
 
Và sau đây là một số bài thơ đơn cử nói lên ảnh hưởng của quan điểm cũng như tư tưởng của tam giáo vào trong nền văn học Việt Nam.
 
- Phật giáo
 
Có bài thơ “Thi đệ tử” của nhà sư Vạn Hạnh, phản ánh triết lý hư vô của đạo Phật rất khái quát. Theo học thuyết của đạo Phật, con người có rồi không, không rồi có, cũng như cây cỏ lúc xanh tươi, khi tàn úa, rồi sự đời thịnh rồi lại suy, chẳng có gì vĩnh hằng trong thế gian.
 
“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô,
Nhiệm vận thính uy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ khảo đầu khô”.
 
Dịch:
 
“Thân như bóng chớp có rồi không,
Cây cối xuân tươi thu não nùng,
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”.
 
- Nho giáo:
 
Trong bài “Quân Đạo”, Lê Thánh Tông đã bộc lộ đạo vừa theo tinh thần văn hóa dân tộc vừa phảng phất quan niệm tu thân của văn hóa Nho giáo:
 
“Chế trị bảo bang tư kế thuật
Thanh tâm quả dục tuyệt du điền”.
 
Dịch:
 
“Chánh dựng nước bền mau nối dõi
Tâm thanh dục ít dứt chơi săn”.
 
Hay trong bài “Thần Tiết” thì tác giả bộc lộ quan điểm “tu, tề, trị, bình” của Nho giáo khá rõ:
 
“Nội ninh ngoại phủ hồi thiên lực
Hậu lạc tiên ưu tế thế tâm”.
 
Dịch:
 
“Lo trước vui sau lòng tế thế
Ngoài yên trong trị sức hồi thiên”.
 
II. ẢNH HƯỞNG CỦA TÂY ÂU
 
Văn hóa Việt Nam vốn nằm trong bối cảnh văn hóa Phương Đông, nhưng đến những năm hậu bán thế kỷ XIV trở đi, qua sự giao lưu với phương Tây, chữ Quốc Ngữ phát triển và hình thành dòng văn học Quốc Ngữ. Mặt khác trong quá trình xâm lăng và định trị trên đất Việt bắt đầu từ 1858 – 1945, người Pháp trực tiếp truyền văn hóa, tư tưởng Âu Tây vào Việt Nam, trong đó nền văn học Quốc Ngữ đóng vai trò chủ yếu.
 
Hơn một trăm năm chữ Quốc ngữ ra đời đã để lại và ảnh hưởng trên nền văn học nước ta chủ yếu là hai hình thức: văn vần, văn xuôi và thơ mới, nhưng văn xuôi chiếm ưu thế. Ngoài các thể thơ văn truyền thống như: ca dao, hò, vè,… chữ Quốc Ngữ rất thuận lợi trong quá trình tiếp biến văn hóa nước ngoài, từ đó thơ mang nhiều hình thức và thi pháp mới, mà ta thường gọi phong trào thơ mới.
 
Sau đây là những tác giả tiêu biểu đã kiến tạo cho nền thơ văn hiện đại hôm nay: Những công trình biên khảo, dịch thuật và sáng tác của Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Khắc Hiếu, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Ngọc, Hoàng Ngọc Phách, Khải Hưng, Nhất Linh, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nam Cao, Tố Hữu,…
 
Tuy nhiên văn học Việt Nam không chỉ ảnh hưởng trên mặt hình thức mà còn ảnh hưởng trên cả đời sống quan điểm và tư tưởng của người dân Việt Nam nữa.
 
1/. Ảnh hưởng tư tưởng lãng mạnTác phẩm “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách; “Hồn Bướm Mơ Tiên” của Khải Hưng; “Thơ Say” của Vũ Hoàng Chương;…
 
2/. Ảnh hưởng tư tưởng tự do dân chủTác phẩm “Quân Tự Chủ Nghĩa” và “Dân Tự Chủ Nghĩa” của Phan Châu Trinh, “Cao Vọng Thanh Niên” của Nguyễn An Ninh; “Đoạn Tuyệt” của Nhất Linh,…
 
3/. Ảnh hưởng của tôn giáoThơ Hàn Mặc Tử,…
 
Sau đây là vài dẫn chứng tiêu biểu cho dòng thơ lãng mạn:
 
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ,
Thủa tung hoành hóng hạch những ngày xưa.
Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi.
                                           (Nhớ Rừng – Thế Lữ)
 
“Ta muốn say cánh mướn với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều”.
 
Hay:
 
“Trong vườn đêm ấy nhiều trăng qua,
Ánh sáng tuôn đầy các lối đi,
Tôi với người yêu qua nhè nhẹ…
Im lìm không dám nói năng chi”.
                                           (Trăng – Xuân Diệu)
 
Trong thời đại ngày hôm nay hầu như các thể thức của nền văn học nước ta đều chịu ảnh hưởng của Tây, tuy nhiên các tác giả vẫn giữ được các cốt lõi, cái thâm sâu nhất của truyền thống Á Đông.

(Còn tiếp)

 

Tác giả: Hoàng Thiên, OP.

Nguồn tin: catechesis.net

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây