Cựu Chủng Sinh Huế

http://cuucshuehn.net


Truyện ngắn: Bàn tay cho và nhận

Giờ đây, nước lạnh rịn qua kẽ tay ông. Ông hiểu: chỉ khi ngửa bàn tay, người ta mới thật sự cảm được nỗi trống trải và ân huệ. Ngửa tay không chỉ để nhận, mà còn để buông. Ông nhớ vợ mình, người đã mất trong mùa nước năm trước. Bà ngửa tay trong đêm, chỉ để đỡ lấy chiếc áo ướt ông đưa.
cho nhau
 
Nước bắt đầu dâng từ chập tối. Đến sáng, cả khu Gia Hội đã loang một màu đục vàng, lững lờ trôi qua những ngõ nhỏ cũ kỹ, nơi những bức tường rêu và mái ngói lợp đã bạc màu theo nắng mưa xứ Huế. Ông Lưu đứng trước hiên, nước lấp xấp ngang bậc tam cấp, vài chiếc lá chuối từ phía đường Bạch Đằng trôi dạt về, quấn vào chậu cảnh trước sân. Ông im lặng nhìn dòng nước chậm mà chắc, giống như bao lần nước đã đến và đi trong đời ông, chỉ khác là lần này ông có thể đứng vững, trong khi nhiều người đang loay hoay dọn chạy.

Ở tuổi gần bảy mươi, ông Lưu đã trải qua nhiều mùa lũ. Hồi nhỏ, nhà ông nằm sâu trong một kiệt hẹp, mỗi lần nước lên là cả nhà phải dọn đồ lên gác, kê bàn ghế bằng gạch, rồi ngồi bó gối chờ trời hửng. Có năm, mẹ ông ngâm cả chum gạo để nấu cháo cầm hơi. Ông nhớ rõ bàn tay mẹ ngày ấy xương xẩu, rám nắng, vẫn lặn lội trong nước lạnh vớt từng củ khoai, từng bó củi trôi. Bàn tay ấy đã bồng ông qua những ngày cơ cực, cũng là bàn tay từng ngửa ra xin nắm cơm của hàng xóm khi nhà không còn gì ăn.

Giờ đây, nước lại về, mà người đứng nhìn là ông, không còn là đứa trẻ co ro năm nào. Ông đã có một căn nhà kiên cố, hai chiếc ghe nhỏ, và một kho gạo dự trữ cho cả khu phố. Ông không giàu sang, nhưng đủ đầy. Mấy năm nay, cứ mùa lũ về, ông lại cùng nhóm bạn cũ gom gạo, mì tôm, dầu ăn để chia cho bà con trong vùng. Ông nói đó là việc nên làm, không vì thiện nguyện hay danh nghĩa gì cả, chỉ là “người từng chịu lũ thì hiểu cảnh người khác chịu lũ”. Ông nhớ câu thơ:

Thì ra, cho đi không làm tôi nghèo,
mà giúp tôi trở lại là chính tôi.
Như dòng sông không giữ nước,
mà vẫn đầy nhờ biết chảy.”
(Phan Bengo)

Trưa hôm đó, nước dâng nhanh. Đội cứu trợ của nhà thờ đến, mang theo mấy thùng mì. Ông Lưu cởi áo mưa, xắn quần, bước xuống nước đi theo đoàn thiện nguyện. Mấy người hàng xóm gọi với: “Ông Lưu, coi chừng nước xiết, nghe!”. Ông chỉ cười, giọng khàn: “Tui quen rồi. Lũ này coi rứa mà hiền, mới hai bữa thôi mà.” Ghe nhỏ lướt qua từng căn nhà, mùi nước lẫn mùi dầu hôi và bùn non. Ông Lưu cúi xuống, đưa từng gói mì, chai nước cho người ta. Những bàn tay ngửa lên  già có, trẻ có, run rẩy hay khô ráp, đều hướng về ông. Có người cúi đầu cảm ơn, có người chỉ lặng lẽ nhận rồi quay đi. Ông thấy trong khoảnh khắc ấy, mọi khoảng cách tan biến  không còn ai giàu hay nghèo, chỉ có người cần và người có thể giúp. Và lạ thay, mỗi lần bàn tay ông đưa xuống, ông lại cảm nhận được hơi lạnh len vào tận lòng bàn tay, như chạm vào chính tuổi thơ của mình.

Khi ghe cập vào cuối xóm, ông thấy một cậu bé ngồi trên mái tôn, ôm con chó con. Đôi mắt nó ngơ ngác, tóc bết nước. Ông chìa tay ra: “Lại đây, con, qua bên ni an toàn hơn.” Cậu bé do dự rồi đặt con chó vào ghe. Bàn tay nó bé, trắng bệch, lạnh ngắt. Ông cầm lấy, kéo lên ghe. Cậu bé khẽ nói: “Chú ơi, nhà con trôi hết rồi.” Ông nhìn xuống nước, những vật dụng nhỏ nổi lềnh bềnh: chiếc dép, cái nồi, một con búp bê cụt tay. Hình ảnh ấy khiến ông nhớ đến lần lũ năm xưa, khi ông cũng ngồi trên mái nhà chờ người đến cứu. Khi ấy, một người đàn ông lạ mặt đã đưa tay kéo ông lên ghe. Bàn tay ấy  mạnh mẽ, ấm và run. Cũng là bàn tay sấp, cứu vớt một bàn tay ngửa cầu xin sinh tồn. Ông chưa bao giờ biết tên người đó, nhưng hình ảnh ấy theo ông suốt đời. Giờ đây, ông đang làm lại điều tương tự, như một vòng tròn lặng lẽ của kiếp người.

Chiều xuống, nước vẫn chưa rút. Ghe của ông cập tạm vào mái hiên nhà cũ của bà cụ Hường, nơi ông từng trú nhờ thời nhỏ. Bà Hường đã mất từ lâu, nhà giờ xiêu vẹo, mái tôn rách loang lổ. Ông nhìn lên bức tường rêu, thấy vết bút chì khắc chữ L 1959. Ông mỉm cười, nước mắt lẫn nước mưa. Đêm, ông về nhà. Bà vợ pha ấm trà gừng, hỏi: “Răng ông cứ đi mãi rứa, lạnh chết.” Ông chỉ đáp: “Không lạnh mô. Lạnh trong nước ri mà, chớ trong lòng thì ấm. Mong sao có nhiều người được ấm.” Rồi ông ngồi trầm ngâm nhìn hai bàn tay mình  những ngón tay đã chai, run nhẹ, nhưng vẫn còn đủ sức nắm, trao, nâng. Ông thấy trong đó có cả bàn tay mẹ, bàn tay người cứu năm xưa, bàn tay cậu bé vừa nắm lấy hôm nay.

Nước ngoài kia vẫn dâng, phản chiếu ánh đèn mờ trong căn nhà. Ông chợt nghĩ, có lẽ đời người cũng như mùa lũ: mỗi khi tưởng mình cho đi, thật ra là mình đang nhận lại  một niềm ấm áp, một ký ức được soi sáng. Giữa những bàn tay sấp ngửa trong dòng nước đục, ông Lưu bỗng thấy mọi thứ trở nên đơn giản: chỉ cần còn có thể chìa tay ra, là còn có thể sống một cách trọn vẹn.

Trưa thứ chín của mùa nước. Mưa đã thôi dội, nhưng nước vẫn lên, từng tấc, từng nhịp lặng lẽ. Dòng sông tràn bờ, len qua từng ngõ hẹp, vờn quanh những bậc thềm rêu cũ. Ông Lưu ngồi trên gác, nghe tiếng xào xạc của mưa còn rớt lại trên mái tôn nhà hàng xóm. Dưới chân, mớ quần áo phơi dang dở vẫn còn ẩm. Ông kiệt sức không còn cố gắng với tới nữa.

Từ sáng, loa phường báo thêm tin bão ngoài khơi. Giọng người đọc khàn đi trong gió, nhưng người nghe chỉ còn thở dài. Nước đã vây hết ngõ, cá con bơi vào tận sân, những thúng hàng trôi ngang qua cổng. Ai cũng lo giữ lấy một thứ gì cái nồi, cái ảnh, hay chỉ là mấy bó củi. Ông Lưu chẳng còn gì để giữ, nên bình thản nhìn nước lặng dâng.

Bàn tay ông khum lại, vốc chút nước đục ngầu. Mặt nước phản chiếu lờ mờ một khuôn mặt xưa có khi là chính mình, có khi là ai khác. Ông từng có tất cả, từng biết cách đặt bàn tay sấp xuống mà cho đi: cho con cái, cho cha mẹ, cho người đời, cho cả những kẻ chưa từng cảm ơn. Ngày ấy, ông tin hạnh phúc nằm ở việc “cho”.

Giờ đây, nước lạnh rịn qua kẽ tay ông. Ông hiểu: chỉ khi ngửa bàn tay, người ta mới thật sự cảm được nỗi trống trải và ân huệ. Ngửa tay không chỉ để nhận, mà còn để buông. Ông nhớ vợ mình, người đã mất trong mùa nước năm trước. Bà ngửa tay trong đêm, chỉ để đỡ lấy chiếc áo ướt ông đưa. Áo nhẹ, nhưng tay bà run. Hôm sau, bà đi theo cơn sốt lạnh. Còn ông, vẫn sống sống giữa những đợt nước đến rồi đi, giữa những lần ngửa bàn tay ra mà không biết đang đón hay đang tiễn.

Chiều ấy, người ta chèo ghe qua, gọi với: Ông Lưu, theo tụi tôi qua trường học trú tạm đi, nước sắp vô nhà rồi. Ông chỉ cười, giơ tay ra vẫy. Cử chỉ ngắn, mà mềm như một lời chào cũ. Ghe đi xa, nước chạm vào bậc gỗ thứ năm. Ông vẫn ngồi đó, ngửa bàn tay lên, như hứng lấy từng hạt mưa cuối mùa.

Ngoài kia, sông và trời nhập làm một. Tiếng chuông nhà thờ xa xa ngân lên, lẫn trong gió. Một đứa trẻ bơi qua, tay ngửa hứng những giọt mưa mà cười. Ông Lưu nhìn, mỉm cười theo. Trong khoảnh khắc ấy, ông thấy mọi điều như trở lại ban đầu khi chào đời con người chưa nắm gì, chỉ biết ngửa bàn tay ra để đón hơi ấm của thế giới.

Và nước vẫn dâng, chậm, như bàn tay của ai đó đang dịu dàng nâng lấy ông.  Ông Lưu khẽ khép mắt. Trong tiếng nước dâng, ông nghe như có lời ai đọc bên tai: “Ngửa tay, không phải để xin, mà để trao mình lại cho bình an.” Mọi thứ rồi cũng trôi chỉ còn lại khoảng lặng giữa hai bàn tay: một bên đã từng sấp xuống để cho, một bên giờ ngửa ra để nhận. Cả hai, đều là dáng dấp của con người khi sinh ra và khi trở về.

Ông thầm ngẫm câu phúc âm: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.” (Mt 5,3) và ngủ ngon sau một ngày thiện nguyện.

Huế 05/11/2025 - Những ngày bão lụt

Đặng Văn Tạo HT69

Tác giả: Đặng Văn Tạo HT69

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây