Cựu Chủng Sinh Huế

http://cuucshuehn.net


Lễ Chúa Giáng Sinh & Lễ Thánh Gia. Giải thích Lời Chúa

-

-

Với hoạt cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”.
LỄ ĐÊM GIÁNG SINH

 
Lễ Giáng Sinh được ghi nhận vào thế kỷ thứ tư. Thật ra, các giáo hội Đông Phương đã cử hành Sinh Nhật của Đức Giê-su rồi. Họ tưởng niệm vào ngày mồng 6 tháng giêng, dưới danh xưng lễ “Hiển Linh” vừa biến cố các nhà đạo sĩ đến thờ lạy Hài Nhi vừa biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả, đồng thời tiệc cưới Ca-na, nghĩa là ba biến cố đầu tiên Chúa Giê-su tỏ mình ra công khai. Ấy vậy, cuộc tưởng niệm ba biến cố cùng một lúc nầy được đi trước bởi đêm canh thức cầu nguyện, suốt đêm đó cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su được gợi lên. Có thể đó là nguồn gốc của lễ Đêm Giáng Sinh của chúng ta.
 
      Is 9: 2-4, 6-7.
 
      Bài Đọc I là bài thơ tràn đầy hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Bảy trăm năm trước đó, vị ngôn sứ hân hoan loan báo cuộc Giáng Sinh của Đấng Cứu Độ.
 
      Tt 2: 11-14.
 
      Trong đoạn trích thư gởi cho ông Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc cho người môn đệ của mình, đồng thời cũng là người bạn đồng hành của mình, nhớ rằng lòng nhân từ của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi cuộc Giáng Sinh của Đức Giê-su, Ngài là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta, bởi vì cuộc Giáng Sinh đã gieo mầm cho cuộc Phục Sinh huy hoàng vinh quang.
 
      Lc 2: 1-14.
 
      Với hoạt cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”.
 
      BÀI ĐỌC I (Is 9: 2-4, 6-7)
 
      Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ nầy không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en: ông gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Ông ca ngợi một trẻ thơ thuộc hoàng tộc Đa-vít sắp chào đời, trẻ thơ nầy là “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).
 
      Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê.
 
      Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc miền Bắc và đã bắt đi lưu đày thành phần dân Ga-li-lê ưu tú đến Át-sua. Quân đội Át-sua có tập quán tàn bạo là móc mắt tù binh. Có lẽ ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến ở đây: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…” Dù thế nào, bóng tối biểu tượng nỗi khốn cùng.
 
      1.Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (Is 9: 2-4).
 
      Nhưng nầy một niềm vui vỡ bờ. Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Vị ngôn sứ phác họa bức tranh đầy màu sắc tươi vui: niềm tủi nhục thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm hoan hĩ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa: những đôi giày chiến và những quân phục nhuốm máu trở thành mồi cho lửa. Thiên hạ sẽ không cần những trang cụ chiến tranh nữa, vì Thiên Chúa can thiệp sẽ đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.
 
      Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử: Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn đau thương khác của lịch sử của họ: khi họ gặp phải những quấy nhiễu của dân Ma-đi-an, Ngài giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.
 
      2.Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (Is 9: 6-7).
 
      Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy, chính vì một trẻ thơ chào đời thuộc hoàng tộc Đa-vít.
 
      Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử: “Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con (Tv 2: 7).
 
      “Người con đó gánh vác quyền bính trên vai”. Người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương – hay trao cho tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng nầy đều được chứng thực trong lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết: “Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).
 
      “Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày phong vương. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập.
 
      Quả thật, những danh hiệu tôn kính nầy là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). “Người cha muôn thuở” danh hiệu thường được ban cho vua – vị cha dân tộc – để cầu chúc vương triều của vua muôn đời bền vững. “Hoàng Tử Hoà Bình”, hoà bình là thiện hảo của thời Mê-si-a. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy.
 
      Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.
 
      3.Lời sấm bí ẩn
 
      Vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát của dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên xứ sở của họ (vương quốc miền Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố nầy với cuộc chào đời - hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc phương Nam, ở Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc được thống nhất dưới vương quyền của vua Mê-si-a?
 
      Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau. Miền Ga-li-lê rực sáng lên ánh sáng Tin Mừng; Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê. Nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, trong vương quốc miền Nam xưa. Lời loan tin vui của đoàn thiên sứ cho toàn dân (Lc 2: 10) xướng đáp với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.
 
      BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)
 
      Ông Ti-tô là một trong số môn đệ và bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã cải đạo; song thân ông đều là người Hy lạp.
 
      Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Vì thế, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái, từ Do thái giáo chịu ảnh hưởng Hy lạp nầy mà chính thánh Phao-lô đã chạm trán ở nơi khác. Vì thế, đối với ông Ti-tô, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo.
 
      Thật khó xác định niên biểu của bức thư nầy. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đô-ni-a.
 
      1.Thần tính của Đức Giê-su.
 
      Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở ông Ti-tô giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt: ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Thiên Chúa đòi buộc các tín hữu từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Quang Lâm của Đức Ki tô, là “Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.
 
      Việc dùng chữ Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki-tô không là cách dùng quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường hay dùng chữ “Thiên Chúa” chỉ để chỉ Chúa Cha. Chúng ta gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Dường như những người Do thái giáo bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki-tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
 
      2.Lợi ích của bức thư.
 
      Bức thư nầy không chỉ có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì thánh Phao-lô cho những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki-tô hữu. Quả thật, tất cả các Tông Đồ của Đức Giê-su đã qua đời, đến thời của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).
      Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.
 
      TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)
 
       Trong số bốn thánh ký Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những tham chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét. Việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô (năm 30 trước Công Nguyên – năm 14 sau Công Nguyên) được thực hiện trên xứ Pa-lét-tin theo tập quán Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.
 
      Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, kỷ niệm về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn tồn tại trong ký ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.
 
      Tại sao Đức Ma-ri-a theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.
 
      1.Hoàn cảnh giáng sinh của Đức Giê-su.
 
      “Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ. Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng tiền thuê rất đắc, chỉ dành cho những người giàu.
 
      2.Hai dấu chỉ cùng lúc.
 
      Đức Giê-su chào đời ở Bê-lem, có nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, vì tình yêu Ngài làm cho mình trở thành một mẫu bánh. Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của hài nhi nầy, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.
 
      3.Con trai đầu lòng.
 
      “Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Đây là thuật ngữ pháp lý; nó không bao hàm rằng Đức Ma-ri-a còn có những người con khác. “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký nói đến là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (x. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh. “Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến và dâng hiến cho Thiên Chúa nhờ hy lễ “chuộc lại” như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo).
 
      Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki-tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới; Trưởng Tử của các vong nhân; mầu nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại: “người anh cả của một đàn em đông đúc”, như lời của thánh Phao-lô.
 
      4. “Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.
 
      Đấng Tạo Hóa hóa thân thành thân phận yếu hèn và phụ thuộc của một hài nhi bé bỏng. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao con người khác.
 
      Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.
 
      5.Thiên Chúa nghèo khó.
 
      Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”. Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn ở nơi chính mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một tên tội phạm nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.
 
      René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.
 
      Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về mầu nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách nầy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, cù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).
 
      6.Mục đồng.
 
      “Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở bên ngoài và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Pa-lét-tin, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn thời biểu nầy để tưởng niệm ngày chào đời của Ngài đã đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối.
 
      Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những người chăn chiên, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học, được liệt vào hạng đàn bà, trẻ con và nô lệ. Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo, khiêm hạ và bé nhỏ.
 
      Những người chăn chiên đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài: Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”. Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15).
 
      Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những người chăn chiên Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Đa-vít mới.
 
      7.Thiên sứ.
 
      Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên giới đã dời chỗ vì Hài Nhi Máng Cỏ không ai khác hơn là Thiên Chúa đích thân.
 
      Các thiên sứ loan báo “một tin vui trọng đại cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui Mê-si-a mà các ngôn sứ biết bao lần đã loan báo (ví dụ như Bài Đọc I), khúc dạo đầu cho niềm vui viên mãn của cõi đời đời.
 
      Sứ điệp các thiên sứ gởi đến thật vĩ đại, những từ ngữ thật cảm động: “Đấng Cứu Độ”, “thành vua Đa-vít”, “Đấng Ki-tô (Mê-si-a)”, “Đức Chúa”. Thật tương phản biết bao với lời kết thúc thật khiêm tốn nầy: “Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Tương phản nầy tiên trưng một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao quanh bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của núi Sọ; vì Ngôi Lời hóa thành nhục thể, không phải để nhục thể nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá sao?
 
      Bài ca của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô chúc tụng của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem trích dẫn cùng những lời như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).
 
      8.Một sự trao đổi kỳ diệu.
 
      Mầu nhiệm Thiên Chúa làm người vừa mặc khải về Thiên Chúa vừa mặc khải về con người. Trong một cuộc yết kiến của thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người”. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời”.
 
 
LỄ THÁNH GIA

 
Lễ Thánh Gia nhắc nhở chúng ta những năm tháng thân mật và thầm lặng thời thơ ấu và niên thiếu của Đức Giê-su, dưới mái ấm gia đình của thánh Giu-se và Mẹ Ma-ri-a, mẫu gương của tất cả mọi gia đình.
 
Hc 3: 3-7, 14-17a
 
Hiền nhân Do thái, ông Si-rác, khuyên con cái phải có lòng thảo kính cha mẹ, nhất là khi các ngài già yếu.
 
Cl 3: 12-21
 
Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-lô-sê thực hành trong cộng đoàn, nhất là trong gia đình các nhân đức như là lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hòa và nhẫn nại, yêu thương, đó là những mối dây liên kết tuyệt hảo.
 
Lc 2: 41-52
 
Tin Mừng Lu-ca tường thuật giai thoại Đức Giê-su lên mười hai tuổi ngồi giữa các tiến sĩ Luật, trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
 
BÀI ĐỌC I (Hc 3: 3-7, 14-17a)
 
Vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, một hiền nhân Do thái, ông Si-rác, mở trường dạy học và ghi lại những thành quả của những kinh nghiệm và những suy tư của ông. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Do thái và được cháu của ông dịch sang Hy ngữ vào năm 150 trước Công Nguyên.
 
Tác phẩm này là sách cẩm nang đạo đức thực hành của một người Ít-ra-en muốn trung thành với đức tin của cha ông mình, không để cho mình bị ảnh hưởng bởi nền văn hóa dân ngoại chung quanh, đặc biệt là sức lôi cuốn của sự khôn ngoan Hy lạp. Sách ông bàn đến nhiều chủ đề rất đa dạng, được tô điểm bởi những thành ngữ rất dể nhớ, và rất được Do thái giáo mến chuộng. Giáo Hội sử dụng sách này đến mức sách có biệt danh là “Giảng Viên”.
 
Tác giả cho thấy mình rất gắn bó với Lề Luật, theo ông, việc thực hành Lề Luật là nguồn mạch của sự khôn ngoan. Trong chương 3, ông Si-rác khai triển một trong những huấn lệnh của Thập Giới, liên quan đến bổn phận của con cái đối với cha mẹ: “Ngươi hãy thờ kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20: 12; Đnl 5: 16).
 
1.Lòng hiếu thảo mang chiều kích phổ quát:
 
Bổn phận thảo kính cha mẹ thuộc vào những truyền thống rất lâu đời của các nền văn hóa, được các tôn giáo và triết học ca tụng. Những lời khuyến dụ của hiền nhân Ít-ra-en rất gần với những bản văn cổ của các nền văn hóa lớn, như Trung Quốc, Ấn Độ và Hy-lạp. Ở Việt Nam, lòng thảo kính của con cái đối với cha mẹ được truyền tụng trong những thành ngữ cao dao, ví dụ như: “Công cha như núi Thái Sơn; nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha; cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Như vậy lòng thảo kính của con cái đối với cha mẹ mang chiều kích phổ quát.
 
2.Lòng hiếu thảo mang chiều kích siêu việt:
 
Huấn lệnh của Thập Giới về lòng hiếu thảo không chỉ thuộc về trật tự tự nhiên, nhưng cũng là chương trình của Đấng Tạo Hóa. Đời sống gia đình ở Ít-ra-en không chỉ nhằm lưu truyền nòi giống của tổ phụ Áp-ra-ham, nhưng cũng truyền đạt từ thế hệ này đến thế hệ khác đức tin của cha ông vào một vị Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tỏ mình ra. Chính vì Thiên Chúa “làm cho người cha được vẻ vang vì con cái, cho người mẹ thêm uy quyền đối với các con” (Hc 3: 2) nên Ngài ban những lời chúc phúc cho con cái có lòng thảo kính cha mẹ mình.
 
3.Những ân phúc của tấm lòng hiếu thảo:
 
“Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ”: Đây là lời chúc phúc truyền thống nhất, cuộc sống trường thọ được xem là quý giá nhất vào thời đó, thời mà những niềm hy vọng ở bên kia nấm mồ đã chưa được biết đến ở Ít-ra-en. Ngạc nhiên hơn, và thuộc trật tự khác, chính là lời hứa: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm”, cũng như “Ai kính mẹ thì tích trữ kho báu” (kho báu chứa đựng ơn tha thứ của Thiên Chúa). Cách diễn tả này tương tự với câu 14: “Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con”.
 
Trong Do thái giáo của thời hậu lưu đày, người ta rất nhạy bén với khái niệm tội lỗi và rất bận tâm đến sự thanh sạch nội tâm. Ông Si-rác thuộc vào những thế hệ này, họ suy niệm giáo huấn của các ngôn sứ; vì thế, ông cũng đề cao việc thực hành các nhân đức hơn việc tế tự bên ngoài. Về phương diện này, ông còn đi xa hơn khi gán cho việc thực hành lòng hiếu thảo của Thập Giới một giá trị hy tế xá tội; tuy nhiên, chúng ta nhận ra một sự khác biệt: trong khi các ngôn sứ đặc biệt bận lòng đến ơn cứu độ tập thể, các hiền nhân quan tâm hơn đến ơn cứu độ cá nhân. Sau cùng, chúng ta cũng nên ghi nhận rằng hiền nhân này cẩn thận viện dẫn những nghĩa vụ không chỉ đối với cha mà còn đối với mẹ nữa. Phải nói rằng đây là một trường hợp họa hiếm trong Cựu Ước, ở đó thường là chỉ mình người cha được nêu lên.
 
BÀI ĐỌC II (Cl 3: 12-21)
 
Như thư gởi tín hữu Ê-phê-xô, thư gởi tín hữu Cô-lô-sê được thánh Phao-lô viết khi thánh nhân bị giam cầm giữa năm 61-63 sau Công Nguyên.
 
1.Bối cảnh:
 
Thành phố Cô-lô-sê, được định vị ở Tiểu Á, cách thành phố Ê-phê-xô 200 cây số về hướng đông, đã thấy xuất hiện một cộng đoàn Ki-tô hữu, cộng đoàn này được một người bạn đồng hành và cũng là môn đệ của thánh Phao-lô thiết lập. Những giáo lý sai lạc, những suy luận về các quyền năng của các thiên thần, những lối sống khắc khổ, cũng như những khuynh hướng Do thái giáo, gây nguy hiểm cho niềm tin của cộng đoàn non trẻ này. Thánh Phao-lô đang bị cầm tù nên không thể đích thân đến tận nơi được, vì thế ngài gởi một bức thư cho các tín hữu Cô-lô-sê. Trong thư này, thánh nhân tập trung giáo huấn của ngài vào Đức Ki-tô và quy chiếu cuộc đời Ki-tô hữu vào điểm cốt yếu: sống kết hiệp với Đức Ki-tô, noi gương Đức Ki-tô, thực hành đức ái và các nhân đức thường ngày.
 
Vào ngày lễ Thánh Gia hôm nay, đoạn trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-lô-sê này mời gọi chúng ta suy gẫm về đời sống gia đình: “Hãy có lòng xót thương, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau”.
 
2.Giáo Huấn:
 
Đức ái Ki-tô giáo là nguồn mạch của sự hiệp nhất và bình an trong cộng đoàn, huống chi trong cộng đoàn nhỏ bé của gia đình, ở đó tình yêu phải là “mối dây liên kết tuyệt hảo”. Theo thói quen của mình, thánh nhân mời gọi các tín hữu “để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng”.
 
Đoạn trích kết thúc với vài nguyên tắc đặc thù về những bổn phận giữa vợ và chồng, giữa cha mẹ và con cái, mà thánh Phao-lô khai triển trong thư gởi tín hữu Ê-phê-xô 5: 21-32. Chúng ta nên nhớ rằng lời khuyên “người làm vợ hãy phục tùng chồng” được đặt vào trong nền văn hóa thời đại đó, như nền văn hóa cổ truyền Việt Nam chúng ta: đức hạnh của người phụ nữ Việt Nam trước đây được quy định bởi “tam tòng”: “tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
 
TIN MỪNG (Lc 2: 41-52)
 
Giai thoại mà thánh Lu-ca kể trong Tin Mừng hôm nay chiếu soi một luồng ánh sáng trên những năm tháng cuộc đời ẩn dật của Đức Giê-su, giữa việc cha mẹ dâng tiến Ngài trong Đền Thờ vào lúc Ngài được sáu tuần lễ và việc Ngài nhận phép rửa bởi Gioan Tẩy Giả vào lúc Ngài ba mươi tuổi.
 
1.Cách thức đào tạo tôn giáo ở Ít-ra-en:
 
Được đặt trở lại vào trong khung cảnh tôn giáo và văn hóa Do thái, dáng điệu Đức Giê-su ngồi giữa các tiến sĩ Luật, ở Giê-ru-sa-lem, khi Ngài lên mười hai tuổi, không có gì là lạ lùng cả. Tất cả những thiếu niên Ít-ra-en đến mười hai tuổi đều trở thành “con cái của Lề Luật”. Từ nay, các em được tham dự vào các cộng đoàn phụng vụ và được dự phần vào buổi cầu nguyện chung.
 
Việc đào tạo tôn giáo cho con cái cốt yếu là bổn phận của cha mẹ trong gia đình, và được bổ túc bởi việc dạy dỗ ở hội đường, vào ngày sa-bát. Các kinh sư thường mở trường dạy học và người ta có thể nghĩ rằng họ quan tâm đến việc đào tạo những “con cái của Lề Luật” tương lai. Ở Giê-ru-sa-lem, các tiến sĩ Luật hình thành nên một loại hội đường ở bên trong Đền Thờ; họ dạy trên các hành lang. Theo truyền thống dạy dỗ kinh sư, để đối thoại với học viên, họ khuyến khích các học viên nêu lên những câu hỏi hay tự mình đặt ra những câu hỏi cho các học viên.
 
Ông Flavius Josephus, sử gia Do thái (35-95 AC) kể lại một kỷ niệm thời niên thiếu của ông, giúp soi sáng đặc biệt giai thoại của Tin Mừng Lu-ca. Khi cậu Flavius Josephus đến tuổi “con cái của Lề Luật”, cậu theo đuổi một năm đào tạo tôn giáo. Các kinh sư đòi cậu đến giữa họ để đặt câu hỏi cho cậu và tranh luận với cậu. Thật ra, cậu Flavius Josephus thuộc một gia đình danh giá chốn kinh thành Giê-ru-sa-lem, còn Đức Giê-su chỉ là một cậu thiếu niên khiêm tốn làng Na-da-rét; tuy nhiên, sự kiện chứng thực rằng các tiến sĩ Luật Giê-ru-sa-lem niềm nở tiếp đón mọi thiếu niên và lắng nghe chúng.
 
2.Ơn gọi được khẳng định:
 
Người ta có thể luôn luôn tự hỏi về mầu nhiệm ý thức mà Đức Giê-su có về ơn gọi của mình, về địa vị Con Thiên Chúa của mình: ý thức này được phát triển như thế nào? Ngài có thật sự hoàn toàn ý thức về sứ mạng của mình khi còn rất bé chứ? Dù sao ở Giê-ru-sa-lem vào lúc mười hai tuổi, Ngài vẫn cảm thấy thoải mái trong nhà của Cha Ngài như nhà của mình; Ngài bày tỏ trí thông minh và sự hiểu biết tôn giáo phi thường trước tuổi mình. “Ai nghe cậu nói cũng ngạc nhiên về trí thông minh và những lời đối đáp của cậu”, nghĩa là, không chỉ những tiến sĩ luật, nhưng những học viên, và ngay cả đám đông trong sân Đền Thờ cũng dừng lại để lắng nghe cậu thiếu niên Giê-su này đối đáp với các chuyên viên Lề Luật. Sau này, sự thông hiểu của Đức Giê-su, sự quán triệt Kinh Thánh của Ngài sẽ làm kinh ngạc những vị lãnh đạo Do thái giáo: “Ông này không học hành gì, mà sao lại thông thạo chữ nghĩa như thế” (Ga 7: 15); còn dân chúng sửng sốt về lời dạy của Ngài: “Vì Người dạy như một Đấng có thẩm quyền, chứ không như các kinh sư của họ” (Mt 7: 28).

Giai thoại Đức Giê-su ngồi giữa các tiến sĩ Luật hàm chứa hai lời dạy: tinh thần siêu thoát đối với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se và dấu chỉ tiên báo mầu nhiệm Vượt Qua, tức là mầu nhiệm Thương Khó, đoạn mầu nhiệm Phục Sinh của Ngài vào ngày thứ ba.
 
3.Tinh thần siêu thoát:
 
Phải chăng đây là cuộc hành trình đầu tiên của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem vào dịp cử hành một trong những đại lễ hằng năm? Người ta có thể tự hỏi điều này. Dù sao Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vẫn để cho con trẻ nhiều tự do. Nghi lễ đã hoàn tất, đoàn hành hương đến từ Ga-li-lê lại lên đường trở về khoảng ba đến bốn ngày đường, theo từng nhóm.
 
Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se vất vả tìm kiếm Đức Giê-su ròng rả suốt hai ngày; đến ngày thứ ba họ mới tìm thấy Ngài. Mẹ Ngài nói với Ngài về những vất vả lo lắng trong khi tìm kiếm Ngài: “Con ơi, sao con lại cư xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” rốt cuộc để chỉ nghe được câu trả lời của Ngài bày tỏ khoảng cách giữa họ với Ngài: “Sao cha mẹ lại tìm con?”. Ngài nhắc lại bổn phận làm con đích thật của Ngài, bổn phận này nối kết bất khả phân giữa Ngài với Thiên Chúa: “Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?”. Ngay từ lúc này, Ngài để cho thoáng thấy ý nghĩa cuộc đời Ngài: Ngài đến để mặc khải Chúa Cha; Ngài phải thi hành ý muốn của Cha Ngài. Đồng thời Đức Giê-su cũng ghi nhận những khoảng cách của Ngài đối với cha mẹ trần thế của Ngài: tình mẫu tử của Đức Ma-ri-a, tình phụ tử của thánh Giu-se phải nhường bước trước sứ mạng cao cả và mầu nhiệm hơn của người con này mà Thiên Chúa đã trao gởi cho họ. Dù “ông bà không hiểu lời Ngài vừa nói”, tuy nhiên “riêng mẹ Ngài thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng”. Với câu ghi nhận này, thánh Lu-ca chỉ cho chúng ta một trong những nguồn sách Tin Mừng về Thời Thơ Ấu của Đức Giê-su mà thánh ký đã đón nhận, hoặc từ chính Đức Trinh Nữ, nếu thánh ký đã đích thân gặp gỡ Mẹ, hoặc qua thánh Gioan, người môn đệ Chúa yêu mà Mẹ đã sống cùng (Ga 19: 25-27) và chắc chắn đã thổ lộ một số lượng kỷ niệm với người môn đệ này. 
 
4.Dấu chỉ:
 
Sau hai ngày tất tả tìm kiếm, “vào ngày thứ ba” họ mới tìm thấy Ngài. Không thể không đọc thấy ở nơi những sự kiện và những lời này, một dấu chỉ báo trước những đau khổ mà Ngài sẽ phải chịu trong biến cố Tử Nạn và những lần gặp lại Ngài cũng vào ngày thứ ba sau khi Ngài sống lại. Không tác giả Tin Mừng nào tường thuật Đức Phục Sinh hiện ra với Mẹ mình. Phải chăng người ta có thể nói rằng việc ghi nhận Đức Ma-ri-a gặp lại Ngài ở đây ẩn chứa một cuộc gặp gỡ của Mẹ Ngài với Ngài khi Ngài sống lại? Hơn nữa, việc ghi nhận này được định vị ngay sau lễ Vượt Qua mà Đức Giê-su vừa cử hành ở Giê-ru-sa-lem…  

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây