Cựu Chủng Sinh Huế

http://cuucshuehn.net


Kiều bào gởi bao nhiêu tiền về Việt Nam trong 50 năm qua?

Tôi thấy câu hỏi này chưa được trả lời, nên trong cái note này tôi mạo muội đưa ra một ước tính. Con số này sẽ làm cho các bạn ngạc nhiên. Không phải ngẫu nhiên mà ngày nay Chánh phủ Việt Nam tổ chức những buổi meeting hàng năm để ghi nhận những đóng góp lớn lao của kiều bào hải ngoại cho đất nước.
dola my
 
Kiều hối ngày nay

Ngày nay, chúng ta hay nghe những con số như kiều bào đã gởi về Việt Nam 16 tỉ USD chỉ trong năm 2024 [1]. Biết là con số khá lớn, nhưng tôi nghi là không chính xác. Năm 2022, lượng kiều hối đã là 19 tỉ USD, thì khó tin rằng 2 năm sau con số này lại giảm.

Nhưng đó là con số của 1 năm. Vậy câu hỏi đặt ra là 30 năm qua thì tình hình ra sao? Các bạn sẽ ngạc nhiên.
 
Theo một phân tích do Chánh phủ công bố thì từ 1993 đến 2023 (tức 30 năm), người Việt ở nước ngoài đã gởi về Việt Nam 230 tỉ USD [3].
 
Hai trăm ba chục tỉ USD!
 
Vẫn theo phân tích đó, con số 230 tỉ USD này tương đương với nguồn vốn FDI đã giải ngân trong cùng kì [3].
 
Đó là theo con số của Việt Nam. Nhưng theo Ngân hàng Thế giới (World Bank) thì lượng kiều hối về Việt Nam thật sự cao hơn những con số Nhà nước ghi nhận được.
 
Đó là những đóng góp ngày nay. Vậy còn thời xưa thì sao?
 
Chuyện xưa: Những đóng góp âm thầm
 
Ngày nay, nhiều người ta đã quên rồi những đóng góp của người tị nạn từ những thập niên Việt Nam còn bị cấm vận và còn trong thời “bao cấp” rất rất nghèo.
 
“Bao cấp” là gì? Thỉnh thoảng tôi nghe các bạn trẻ tò mò hỏi. Một cách ngắn gọn, kinh tế Việt Nam thời bao cấp, kéo dài từ năm 1976 đến 1986, là một giai đoạn kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Điều này có nghĩa là Nhà nước độc quyền quản lí và phân phối hàng hóa thiết yếu bằng tem phiếu theo chế độ hộ khẩu. Không có kinh tế tư nhân. Cũng chẳng có khái niệm kinh tế thị trường. Mô hình kinh tế này được áp dụng ở miền Bắc trước đây, và sau 1975 thì được áp dụng trên cả nước. Hậu quả là gì? Là kinh tế suy thoái, đời sống người dân gặp muôn vàn khó khăn do thiếu thốn hàng hóa, sự phân phối không hợp lí và sự trì trệ của cơ chế quản lí.
 
Giữa những năm 1980 Việt Nam được xếp vào nhóm các quốc gia nghèo nhứt trên thế giới.
 
Thời đó, Việt Nam cái gì cũng thiếu. Thiếu thuốc điều trị. Thiếu dụng cụ y tế. Thiếu vải mặc. Thiếu gạo ăn. Thiếu … tất tần tật.
 
Trong thời gian khó khăn đó, những người tị nạn / vượt biển đã có những đóng góp âm thầm.
 
Thời đó, dĩ nhiên, 100% người tị nạn là nghèo nàn. Ra đi trong một hoàn cảnh bi đát, chẳng đem theo một hành trang gì quí giá, thì làm sao gọi là giàu có được. Rồi khi tới một nơi xa lạ, phải làm lại cuộc đời từ hai bàn tay trắng. Nhiều khó khăn lắm. Ấy vậy mà người tị nạn vẫn kiên trì gởi về quê rất nhiều. Vào thập niên 1970s, có một ca khúc mô tả khá rõ những món quà mà người tị nạn gởi về Việt Nam:
 
Em gởi về cho anh dăm bao thuốc lá
Gởi về cho mẹ dăm chiếc kim may

Gởi về cho chị dăm ba xấp vải
Gởi về cho em kẹo bánh thênh thang
Em gởi về cho anh một cây bút máy
Gởi về cho mẹ dăm gói chè xanh

Gởi về cho chị hộp diêm nhóm lửa
Gởi về cho em chiếc nhẫn yêu thương

Thời đó, bất cứ người tị nạn nào cũng gởi về quê nhà. Người già không đi làm cũng nhín tiền trợ cấp xã hội để gởi về Việt Nam. Ai ai cũng đóng hàng hoá thành kiện để gởi về Việt Nam. Hàng hoá bao gồm thuốc men, quần áo, vải, bánh kẹo, đồ gia dụng, v.v.
 
Những món hàng từ hải ngoại gởi về gia đình có hai mục đích rõ rệt. Một là đáp ứng nhu cầu sống còn trước mắt (quần áo, xà bông, thuốc men, v.v.). Hai là giá trị trao đổi: các vật dụng này có thể được dùng để đổi lấy thực phẩm tươi và các nhu yếu phẩm khác, vốn không thể gởi từ nước ngoài nhưng lại luôn khan hiếm ở Việt Nam thời hậu chiến.
 
Và, không thể thiếu được là tiền. Gởi tiền chánh thức, bán chánh thức và chui về gia đình bên Việt Nam. Tất cả — xin nhấn mạnh là ‘tất cả’ — người tị nạn đều gởi tiền về quê nhà (bên cạnh những thùng quà). Gởi thường xuyên, có khi hàng tháng. Tôi biết rõ, vì chính anh em tôi là những người từng làm như vậy.
 
Không ai biết được số tiền mà người tị nạn gởi về quê nhà trong thập niên 1976 – 1986. Nhưng theo một nghiên cứu, chỉ năm 1984, Thượng nghị viện Mĩ ước tính người tị nạn gởi về khoảng 200 triệu USD (tương đương với chừng 800 triệu USD ngày nay).
 
Thường thì số tiền mà cộng đồng bên Mĩ gởi về Việt Nam chiếm tỉ trọng 60-65% tổng số kiều hối trên thế giới gởi về Việt Nam. Nói là ‘trên thế giới’, nhưng trong thực tế thì chỉ xoay quanh các nước như Mĩ, Úc, Gia Nã Đại / Canada, Pháp, Đức, và các nước Bắc Âu.
 
Nếu lấy tỉ trọng kiều hối từ Mĩ là 60% trên tổng số kiều hối, thì chúng ta có thể suy đoán rằng năm 1984, tổng số kiều hối từ cộng đồng tị nạn trên thế giới là 1.33 tỉ USD.
 
Ước tính kiều hối trước 1993
 
Nếu tính từ 1976 đến 1993, với con số người tị nạn gia tăng hàng năm và cuộc sống dần dần ổn định, với giả định kiều hối tăng theo kiểu tích luỹ.
 
Nhưng làm sao ước tính số kiều hối trong thời gian đỏ? May mắn thay, tôi tìm thấy dữ liệu của Ngân hàng Thế giới mà báo SGGP có trích dẫn từ 2012 đến 2022 như sau [4]:
 
2012: 10 tỉ USD
2013: 11 tỉ USD
2014: 12 tỉ USD
2015: 13 tỉ USD
2016: 14 tỉ USD
2017: 15 tỉ USD
2018: 16 tỉ USD
2019: 17 tỉ USD
2020: 17.2 tỉ USD
2021: 18.06 tỉ USD
2022: 19 tỉ USD
 
Dựa vào những con số trên và dùng phương pháp hồi qui tuyến tính, chúng ta có thể ước tính ngược con số kiều hối 1976 – 1993 (xem biểu đồ).
 

Theo mô hình phân tích này, từ 1976 – 1993, tổng số kiều hối cộng đồng tị nạn gởi về quê nhà là ~35 tỉ USD.
 
Từ 1993 – 2023, số kiều hối là 230 tỉ USD (theo con số của Chánh phủ).
 
Năm 2024-2025, ước tính là 34 tỉ USD.
 
Như vậy, tính từ 1976 đến 2025, tổng cộng kiều hối ước lượng là 344 tỉ USD. Đa số kiều hối là đầu tư và giúp đỡ gia đình, nhưng là loại viện trợ không hoàn lại.
 
Điều cần nhấn mạnh là kiều hối xuất hiện trước cả các dòng vốn FDI hay đầu tư trực tiếp nước ngoài.
 
Và, cho tới nay kiều hối vẫn song hành cùng các dòng vốn này, đã trở thành một biểu tượng định hình sâu sắc tâm thức Việt Nam đương đại.
 
Người mình có câu đại khái rằng giúp đỡ người khác khi họ gặp khó khăn là cách thể hiện rõ nhất tình yêu thương và sự cảm thông. Tương tự, giúp đỡ quê nhà trong lúc còn khó khăn là một hành động vô cùng quí báu và tình cảm sâu sắc. Quên hay cố tính quên đi sự gíup đỡ đó và cái tình cảm đó là ‘không lớn nổi thành người.’ (Anh Đỗ Trung Quân hay anh nhạc sĩ viết câu này chắc không cự nự chớ?)

Dù sao thì tôi cũng hiểu được tại sao mỗi năm Nhà nước rất ưu ái tổ chức họp hội cho giới kiều bào. Nhưng tôi sợ là những người được mời không đại diện cho hàng triêu kiều bào vất vả làm lụng gởi tiền về quê nhà.
 

Biểu đồ trên: Số kiều hối trong năm 2020 (số liệu của World Bank) từ Mĩ, Canada, Úc, Đức, Pháp, Hàn, Nhật, Đài, v.v. Biểu đồ giữa: Số kiều bào trong năm 2020-2021. Biểu đồ dưới: Kiều hối tính trên đầu người (USD) năm 2020. Đồng hương Mĩ gởi về nhiều nhứt, sau đó là Canada / Gia Nã Đại, Đức, và Úc. Các nước có xuất cảng lao động (Đài Loan, Hàn, Nhật) cũng có gởi nhưng không nhiều.
____

Ghi thêm 1

Các bạn có thể nghe qua một phân tích về “Kinh tế Việt Kiều” của NNN tại đây:
 
 
[1] https://vnexpress.net/khoang-16-ty-usd-kieu-hoi-ve-viet-nam-trong-nam-2024-4832487.html
[2] https://tuoitre.vn/kieu-hoi-ve-tp-hcm-nam-2023-gan-gap-3-lan-von-dau-tu-nuoc-ngoai-20231221145631886.htm
[3] https://dttc.sggp.org.vn/sau-30-nam-kieu-hoi-ve-viet-nam-dat-230-ty-usd-post119324.html
[4] https://www.sggp.org.vn/nan-dong-kieu-hoi-vao-ha-tang-bai-3-kieu-hoi-chay-ve-dau-post735715.html

Ghi thêm 2

Có ý kiến cho rằng số kiều hối này chủ yếu là do “xuất cảng lao động”, chứ không phải từ những người Việt đi định cư ở nước ngoài sau 1975. Nếu ý kiến này đúng thì số kiều hối từ Nhật Bản, Nam Hàn, và Đài Loan (những nước mà Việt Nam xuất cảng nhiều lao động) phải cao hơn so với Mĩ, Úc, Canada (ba nước có đông người tị nạn và di dân sau 1975). Vậy chúng ta thử xem qua con số thực tế xem sao.

Theo một phân tích về nguồn gốc kiều hối, thì lượng kiều hối từ Mĩ là cao nhứt, kế đến là Canada và Úc. Cụ thể như sau (con số của năm 2020 của Ngân Hàng Thế Giới):

· Kiều hối từ Mĩ: 11.36 tỉ USD
· Canada: 1.5 tỉ USD
· Úc: 1.2 tỉ USD
· Đức: 1 tỉ USD
· Pháp: 0.8 tỉ USD
· Nhật Bản: 0.6 tỉ USD
· Nam Hàn: 0.6 tỉ USD
· Đài Loan: 0.5 tỉ USD.

Như vậy, phần lớn kiều hối là do dân di cư và tị nạn gởi về; con số từ xuất cảng lao động kiêm tốn hơn nhiều. Nhưng sự thật này có thể hiểu được, vì người xuất cảng lao động đa số là nghèo, còn người di dân / tị nạn sau vài chục năm ổn định cuộc sống họ có điều kiện để gởi về Việt Nam. Có một nguồn nữa: rửa tiền và tham nhũng, nhưng đây là số tiền sau này (không phải trước kia), và cũng khó tính hết được.

Lại có ý kiến cho rằng đa số kiều hối là do tham nhũng, tuồn tiền ra ngoài, rồi quay về đầu tư. Tôi nghĩ chắc chắn có, nhưng không biết chiếm tỉ trọng bao nhiêu. Tuy nhiên, kiều bào đã gởi hàng tỉ USD mỗi năm về Việt Nam ngay từ sau 1976 trong thời gian khó khăn, chứ không phải chỉ mới đây. Dĩ nhiên, đó là chưa kể đến những chi tiêu mà kiều bào chi ở VN nhưng không bao giờ đếm hết được. Mỗi người về VN không bao giờ chi ít hơn 2000 USD. Mỗi năm có chừng 700 ngàn – 1 triệu Việt kiều về thăm nhà, con số chi tiêu chắc phải hàng tỉ USD / năm. Do đó, nói do tham nhũng này nọ là một cách đánh giá thấp đóng góp của những người tị nạn vậy.

Tác giả: TS Nguyễn Văn Tuấn
https://nguyenvantuan.info/2025/10/02/kieu-bao-goi-bao-nhieu-tien-ve-viet-nam-trong-50-nam-qua/

-----------------------------------------------------
Về TS Nguyễn Văn Tuấn:

Ông sinh ra tại Kiên Giang, cha ông là một chiến sĩ Vệ quốc quân người Bình Định đã vào Nam theo chiến dịch Nam tiến thời chống Pháp. Ông lớn lên ở Kiên Giang và rời Việt Nam năm 1981 sang định cư tại Australia năm 1982.

Khi sang Úc định cư, ông bắt đầu bắc các công việc phụ bếp, rồi làm phụ tá trong phòng thí nghiệm sinh học tại Bệnh viện St. Vincent’s.

Từ năm 1987-1997: Ông lần lượt tốt nghiệp Thạc sĩ Đại học Macquarie (Úc), Tiến sĩ thống kê, chuyên về dịch tễ học Đại học Sydney (Úc), Tiến sĩ y khoa Đại học New South Wales (Úc), Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (postdoc) tại Đại học Basle, Trung tâm nghiên cứu lâm sàng Sandoz (Thụy Sĩ) và Bệnh viện St Thomas (Anh).

Năm 1997, ông tốt nghiệp Tiến sĩ Y khoa nội tiết học, và được bổ nhiệm làm Phó Giáo sư Dịch tễ học trường Y thuộc Đại học Wright States (Mỹ), Năm 1998 ông được bổ nhiệm Phó Giáo sư y khoa tại trường này.

Năm 2009, ông được bổ nhiệm Giáo sư Đại học New South Wales (Úc) và là hiện là giảng viên cao cấp tại trường này.

Ngoài công việc thỉnh giảng ông còn là một nhà nghiên cứu khoa học với các công việc như Trưởng nhóm nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Úc và là Nghiên cứu viên cao cấp Hội đồng quốc gia về nghiên cứu y khoa và y tế Úc (NHMRC).

Trên trường quốc tế ông đã có gần 150 công trình nghiên cứu khoa học mà 70% là về di truyền học, 30% là dịch tễ học, đã từng làm giáo sư thỉnh giảng tại nhiều nước như Mỹ, Anh, Hồng Kông.[2]

Ngoài lĩnh vực Y khoa tạo nên tên tuổi, ông cũng dành thời gian viết về nghiên cứu văn học và báo chí, với những bài viết sắc sảo trên những tờ báo lớn ở Việt Nam.

Nguồn: https://www.vietnamvanhien.net/nguyenvantuan.html

Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn

Nguồn tin: nguyenvantuan.info

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây