Cựu Chủng Sinh Huế

http://cuucshuehn.net


Chúa nhật 15 TN C. Giải thích Lời Chúa

-

-

Qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân hậu”, Chúa Giê-su chấm dứt tinh thần duy luật, chấm dứt chủ nghĩa dân tộc, chấm dứt sự phân biệt đối xử, chấm dứt mọi lý lẽ đưa ra để biện minh cho thái độ “tránh sang một bên” trước những nỗi khốn khổ ...
CHÚA NHẬT XV THƯỜNG NIÊN

 
Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta suy niệm về Thiên Chúa, Ngài là Đấng cao cả tuyệt mức nhưng cũng là Đấng vô cùng gần gũi với chúng ta. Đây là hai chiều kích bất khả phân về sự hiện diện của Thiên Chúa.
 
Đnl 30: 10-14
 
Lời Chúa không ở xa chúng ta, nhưng ở gần bên chúng ta, ngay trong miệng trong lòng để chúng ta đem ra thực hành.
 
Cl 1: 15-20
 
Thánh Phao-lô nhắc nhở các tín hữu Cô-lô-xê sự ưu việt tuyệt đối của Chúa Ki-tô trong trật tự tự nhiên cũng như trong trật tự siêu nhiên.
 
Lc 10: 25-37
 
Tin Mừng thuật lại huấn lệnh “yêu người” của Đức Giê-su, được minh họa qua dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân lành”. Qua dụ ngôn này, Chúa Giê-su để cho thấy Ngài đến với chúng ta bằng trọn tấm lòng xót thương của Ngài, cúi xuống trên những khốn khổ của chúng ta và làm cho mình trở thành người thân cận của chúng ta.
 
BÀI ĐỌC I (Đnl 30: 10-14)
 
Đệ Nhị Luật là cuốn sách thứ năm và cuối cùng của bộ Ngũ Thư.“Đệ Nhị Luật”, tức “luật thứ hai” (deuteros: thứ hai và nomos: luật), vì thế cũng được gọi một cách ngắn gọn“Thứ Luật”. Đây là nhan đề mà Kinh Thánh Hy-lạp đặt cho sách vào thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên.
 
1. Bối cảnh:
 
Quả thật, sách được trình bày dưới hình thức năm bài diễn từ của ông Mô-sê được cho là đang ngỏ lời với dân Ít-ra-en trước khi dân tiến vào Đất Hứa. Thật ra, tác phẩm này đã được biên soạn nhiều thế kỷ sau này, vào thời kỳ mà dân Chúa bất trung cần những lời nhắc nhở về lịch sử Giao Ước và những yêu sách mà Giao Ước đòi hỏi. Cuộc khủng hoảng này chắc chắn xuất xứ từ vương quốc miền Bắc vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên và một thế kỷ sau đó đã để lại hệ lụy cho vương quốc miền Nam.
 
Vì thế, sách Đệ Nhị Luật là thể loại giáo lý về Giao Ước nhằm trả lời cho một câu hỏi cơ bản: Tại sao dân Ít-ra-en lại thiếu niềm tin? Do bởi niềm tin này đã không được sống ở trong lòng, những huấn lệnh cũng như những chỉ thị của Thiên Chúa vẫn ở bên ngoài con người. Đoạn văn mời gọi một đời sống tôn giáo nội tâm này, vốn là một trong những nét đặc trưng nhất của sách, thuộc về phần cuối diễn từ thứ năm của ông Mô-sê, tức là phần kết của tác phẩm.
 
2. “Anh em hãy nghe tiếng của Đức Chúa”:
 
Lệnh truyền “Anh em hãy nghe” là một trong những điệp khúc của sách Đệ Nhị Luật, nhất là ở nơi lời kêu gọi long trọng của lệnh truyền “mến Chúa” (6: 4-9), bắt đầu với: “Hãy nghe đây, hỡi Ít-ra-en”, hình thành nên lời mở đầu kinh nguyện thường ngày của Do thái giáo, được gọi là kinh “Shê-ma”.
 
Lệnh truyền: “Hãy trở về với Đức Chúa, là Chúa của anh em, hết lòng hết dạ”, nhắc nhở Ít-ra-en phải một lòng một dạ với Thiên Chúa của mình. Chúng ta gặp thấy ở nơi lệnh truyền này một định nghĩa về Giao Ước, tức là một kết ước tình yêu từ hai phía. Phải đáp trả những ân tình của Thiên Chúa bằng cách “yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, hết lòng hết dạ, hết sức anh em”. Ở nơi tư tưởng này của sách Đệ Nhị Luật, người ta phát hiện ảnh hưởng của các ngôn sứ, đặc biệt là ngôn sứ Hô-sê. Ngôn sứ Hô-sê đã sánh ví tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Ngài với tình yêu của chồng đối với vợ của mình. Do đó, ngôn sứ Hô-sê xem Giao Ước giữa Thiên Chúa với dân Ngài là Hôn Ước, vì thế, đòi hỏi dân Thiên Chúa phải một lòng một dạ với Thiên Chúa của mình, giữ trọn tình yêu nhất mực chung thủy với Thiên Chúa của mình.
 
3. Nội tâm hóa Lề Luật:
 
“Vì mệnh lệnh tôi truyền cho anh em hôm nay”. Từ “hôm nay” này thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật nhằm để chuyển từ chuyện tích sang lời khuyên bảo, từ quá khứ sang hiện tại, từ “ôn cố” sang “tri tân”. Vì thế, “hôm nay” muốn nói lên giá trị thường hằng của Lề Luật.
 
Lề Luật này không ở ngoài tầm tay của chúng ta, nhưng ở trong tâm khảm của chúng ta. Sau này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a sẽ phát biểu theo cùng một cách như vậy: “Này đến ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã hủy bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân Ta” (Gr 31: 31-33).
 
4. Nhân cách hóa Lời Thiên Chúa:
 
Lề Luật bắt nguồn từ Thiên Chúa, vì thế Lề Luật là Lời Thiên Chúa. Tác giả nhân cách hóa và nội tâm hóa Lời Thiên Chúa: “Vì Lời Chúa ở sát bên anh em, ngay trong miệng trong lòng, để anh em đem ra thực hành”. Việc nhân cách hóa và nội tâm hóa Lời Chúa này xem ra như một linh cảm về Ngôi Lời. Các sách minh triết sẽ dâng hiến vài ví dụ như thế. Những cách tiếp cận Lời Chúa của các hiền nhân này không xa lạ với thần học Ngôi Lời, mà thánh Gioan sẽ khai triển, không chỉ trong Tựa Ngôn, nhưng cũng trong ý nghĩa và tầm mức mà thánh nhân sẽ ban cho động từ “ở”. Thánh Phao-lô sẽ trích dẫn những câu Đệ Nhị Luật này để đối lập sức mạnh bên trong của Đức Tin với sự vô ích bên ngoài của Lề Luật (Rm 10: 6-8).
 
Tin Mừng hôm nay, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành”, nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đã đích thân đến ở kề bên chúng ta để cứu giúp chúng ta trong những khốn cùng của chúng ta.
 
BÀI ĐỌC II (Cl 1: 15-20)
 
Trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê và trong Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê, thánh Phao-lô còn bảo tồn cho chúng ta hai bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô (Cl 1: 15-20 và Pl 2: 6-11). Cả hai bài thánh thi này dường như  thuộc về gia sản phụng vụ của Giáo Hội tiên khởi; chúng hình thành nên những chứng liệu quý báu. Bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô trong Thư gởi tín hữu Phi-líp-phê được đặt vào bối cảnh của lời khuyến dụ luân lý; còn bài thánh thi tôn vinh Đức Ki-tô trong Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê thì đáp ứng mối quan tâm đạo lý.
 
1. Bối cảnh:
 
Thành phố Cô-lô-xê là một thành phố nhỏ thuộc miền Phy-gi-a, cách Ê-phê-xô khoảng chừng 200 cây số về hướng đông. Vào thời thánh Phao-lô, thành phố này đã mất đi nhiều tầm quan trọng xưa kia của nó. Thành phố này đã không được thánh Phao-lô đích thân rao giảng Tin Mừng, nhưng bởi một trong những cộng sự viên của thánh nhân, là ông Ê-páp-ra, nguyên quán Cô-lô-xê, ông này cũng đã thiết lập các cộng đoàn Ki-tô hữu ở Lao-đi-xê và ở Hi-ê-ra-pô-li, hai thành phố khác được định vị trong thung lũng Lycus, như Cô-lô-xê.

Những khó khăn đạo lý nổi lên khiến ông Ê-páp-ra lo lắng, vì thế ông đến thỉnh ý thánh Phao-lô, lúc đó thánh nhân đang bị giam cầm, hoặc ở Rô-ma (61-62), hoặc còn ở Xê-da-rê trước khi bị chuyển đến Rô-ma (58-60). Thánh Phao-lô không thể đích thân đến tận nơi, nên viết thư này gởi tín hữu Cô-lô-xê.
 
Chúng ta khó biết được đích xác những biện luận sai lạc làm xao động các tín hữu Cô-lô-xê, chúng liệu cốt yếu mà chúng ta có được là bức thư này. Dù thế nào, chắc hẳn những biện luận này giảm thiểu vai trò của Đức Ki-tô, trong khi đề cao tầm quan trọng của các hữu thể thần thiêng trung gian giữa Thiên Chúa và nhân loại. Quả thật, trong Thư, thánh Phao-lô nói về “mãnh lực thần thiêng hay quyền năng thượng giới”, “những yếu tố vũ trụ”, “việc cúng tế các thiên thần”, từ vựng gợi lên những biện luận tôn giáo hỗn hợp mà vài người Cô-lô-xê say mê.
 
Để trả lời, thánh Phao-lô trích dẫn liền ngay sau những lời chào hỏi thông thường và một lời mào đầu khuyến dụ, bài thánh thi ca ngợi quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự tự nhiên cũng như thuộc trong trật tự siêu nhiên.
 
Vài người nghĩ rằng bài thánh thi này có nguồn gốc ngoại giáo nhằm ca ngợi sự hài hòa của vũ trụ theo trường phái triết học khắc kỷ và đã được Ki-tô hóa. Nhưng bài thánh thi này, rất gần với lời mở đầu Thư gởi tín hữu Do thái và với Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan, hướng về một nền tảng Kinh Thánh chung, đặc biệt nền tảng của các sách minh triết.
 
2. Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự tự nhiên:
 
“Đức Giê-su Ki-tô là hình ảnh Thiên Chúa vô hình, nắm quyền Trưởng Tử trên mọi loài thọ sinh, bởi chưng chính nhờ Người, Thiên Chúa đã tạo thành muôn vật trên trời cùng dưới đất, hữu hình với vô hình”. Những câu mở đầu này áp dụng cho Đức Ki-tô những từ ngữ ca ngợi tính ưu việt của Đức Khôn Ngoan, trong các bản văn thuộc trào lưu minh triết Kinh Thánh: “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26), hoặc “Đức Chúa đã dựng nên ta như tác phẩm đầu tay của Người, trước mọi công trình của Người từ thời xa xưa nhất. Ta đã được tấn phong từ đời đời, từ nguyên thủy, trước khi có mặt đất…Đã có ta hiện diện khi Người thiết lập cõi trời…Khi người đặt nền móng cho đất, ta hiện diện bên Người như tay thợ cả…” (Cn 8: 22tt.).

“Chính nhờ Người, Thiên Chúa đã tạo thành muôn vật trên trời cũng dưới đất…Hết thảy đều do Thiên Chúa tạo dựng nhờ Người và cho Người”, nghĩa là Đức Ki-tô vừa nguyên nhân tác thành vừa nguyên nhân cùng đích của vũ trụ. Thánh Gioan sẽ lấy lại những từ ngữ của Thư gởi tín hữu Cô-lô-xê này trong Tựa Ngôn của mình: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có chi tạo thành. Điều được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (Ga 1: 3).
 
“Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại và hiện hữu nhờ liên kết với Người”. Chúng ta không nên nghĩ rằng viễn cảnh này mang tính vũ trụ, trước hết nó mang tính thần học. Đức Ki-tô “thâu tóm” ở nơi Ngài toàn thể vũ trụ, như các nhà thần học nói.
 
3. Quyền tối thượng của Đức Ki-tô trong trật tự siêu nhiên:
 
Nếu Đức Ki-tô là khởi nguyên công trình tạo dựng trong trật tự tự nhiên, thì Ngài không kém là khởi nguyên toàn bộ sự sống siêu nhiên. Ngài là đầu Giáo Hội, thân thể mầu nhiệm của Ngài. Ngài là “Trưởng Tử trên mọi loài thọ sinh” như thế nào, thì Ngài là người đầu tiên từ cõi chết sống lại như vậy, nghĩa là Ngài đã khai mạc sự sống vinh quang; Ngài là Chủ Tể đời sống mới này. Ngài là “khởi đầu và kết thúc, An-pha và Ô-mê-ga” mà thánh Gioan sẽ nói trong sách Khải Huyền.
 
Chính Đức Ki-tô là tác giả của ơn cứu độ: “Nhờ máu Người đổ ra khi chết trên thập giá, Thiên Chúa đã làm hòa với mọi loài dưới đất và muôn vật trên trời”. Đối chiếu với sự hài hòa của vũ trụ là sự hài hòa của các tâm hồn mà việc tha thứ tội lỗi mang lại: sự bình an trong tâm hồn này là thành quả hy tế của Đức Ki-tô.
Khi trích dẫn bài thánh thi ca ngợi tính ưu việt của Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã thấy ở đây trước tiên một vũ khí chống lại những lời nói vớ vẩn của các triết gia Cô-lô-xê; nhưng đồng thời thánh nhân cũng đã gặp thấy ở đây những từ ngữ thần học, diễn tả sâu xa thần học của thánh nhân. Biến cố trên đường Đa-mát đã mặc khải cho thánh nhân tầm quan trọng hàng đầu của vai trò Đức Ki-tô. Con người Đức Ki-tô ngự trị trên quan điểm về ơn cứu độ, quan niệm về Giáo Hội, cũng như kinh nghiệm nội tâm của thánh nhân. Đức Ki-tô là tất cả trong mọi sự.
 
TIN MỪNG (Lc 10: 25-37)
 
Đoạn Tin Mừng này gồm có hai phần: phần thứ nhất là cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với vị thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất: “Mến Chúa và Yêu Người”, và phần thứ hai là dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” để minh họa giới luật “Yêu Người”. Trong nhiều dụ ngôn riêng của Tin Mừng Lu-ca, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân lành” là một trong những dụ ngôn danh tiếng nhất. Thánh Lu-ca đặt dụ ngôn này ngay trước cuộc viếng thăm của Đức Giê-su tại nhà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a, ở đó cô Mác-ta và cô Ma-ri-a tiếp đón Đức Giê-su, mỗi người mỗi cách, để minh họa cho giới luật “Mến Chúa”. Như vậy, dụ ngôn “Người Sa-ma-ri” này cùng với câu chuyện “hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a” hình thành nên bức tranh bộ đôi dồi dào về ý tứ và phong phú về giáo huấn: “Mến Chúa và Yêu Người”.
 
Cuộc đối thoại giữa Đức Ki-tô và người thông luật về hai giới luật quan trọng bậc nhất này, cũng được thánh Mát-thêu (22: 34-40) và thánh Mác-cô (12: 28-31) thuật lại. Cả hai thánh ký này đều định vị cuộc đối thoại này vào khuôn khổ sứ vụ của Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem, vài ngày trước cuộc Thương Khó; trong khi thánh Lu-ca đặt cuộc đối thoại này ở đầu cuộc hành trình lên Giê-ru-sa-lem của Đức Giê-su. Ngoài ra, thánh Mác-cô nhận định thái độ tích cực của vị thông luật này: khi hỏi Chúa Giê-su, ông chân thành muốn biết giới luật nào đứng hàng đầu và khi thấy câu trả lời xác đáng của Chúa Giê-su, chính ông đã tán thưởng: “Thưa Thầy, hay lắm, Thầy nói rất đúng” (Mc 12: 32). Trái lại, thánh Lu-ca cũng như thánh Mát-thêu xem câu hỏi của vị thông luật này là có ác ý: hỏi một vấn đề nan giải để “thử” Chúa Giê-su ngỏ hầu để Ngài lỡ lời mà bắt bẽ hay để Chúa Giê-su không trả lời được mà dèm pha bêu xấu Ngài.
 
1. Câu hỏi của vị thông luật:
 
Trong Tin Mừng Lu-ca, vị thông luật này lên tiếng hỏi Đức Giê-su: “Thưa Thầy, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp”. Nhưng Chúa Giê-su không trả lời trực tiếp mà hỏi ngược lại vị thông luật này: “Trong luật đã viết gì? Ông đọc thế nào?”. Vì thế, chính vị thông luật này đặt câu hỏi và cũng chính ông trả lời bằng cách liên kết giới luật: “mến Chúa” được dạy trong sách Đệ Nhị Luật (6: 5) và giới luật “yêu người” được ghi trong sách Lê-vi (19: 18). Có thể các kinh sư trước thời Chúa Giê-su đã đối chiếu hai bản văn này rồi. Tôn giáo về một Thiên Chúa giàu lòng yêu thương được mặc khải trong Cựu Ước là một mặc khải duy nhất và đáng kính so với quan niệm về Thượng Đế tại các dân tộc khác, kể cả triết học Hy-lạp. Trong câu chuyện của Tin Mừng Mát-thêu và Tin Mừng Mác-cô, chính Đức Giê-su công bố hai giới luật mến Chúa và yêu người là ngang bằng nhau. Chắc chắn, các nhà thông luật đã không dám đẩy lời dạy của họ xa cho đến mức xem hai giới luật này ngang bằng nhau như vậy.
 
Sau khi nghe câu trả lời của vị thông luật, Chúa Giê-su chỉ còn xác nhận: “Ông trả lời đúng lắm. Cứ làm như vậy là sẽ được sống”. Nhưng để chứng tỏ là mình có lý, vị thông luật lại hỏi Chúa Giê-su: “Nhưng ai là người thân cận của tôi?”. Quả thật, trong sách Lê-vi, người thân cận được định nghĩa là người thuộc vào dân Thiên Chúa và phải được cư xử như là anh em. Chúa Giê-su muốn phá vỡ quan niệm hẹp hòi này. Để giúp vị thông luật hiểu rõ hơn, Ngài kể dụ ngôn “người Sa-ma-ri nhân hậu”.
 
2. Dụ ngôn người Sa-ma-ri nhân hậu:
 
Hai thành phố này cách nhau khoảng hai mươi lăm cây số với độ chênh lệch khá lớn (Giê-ru-sa-lem được định vị ở độ cao khoảng 800 đến 900 mét; Giê-ri-cô ở dưới mực nước biển khoảng 250 mét). Vào thời đó, đoạn đường giữa hai thành phố này có những đồi núi khô cằn, những hốc đá và những khe núi, vì thế, đầy những hang ổ trộm cướp và những chuyện cướp bóc thường hay xảy ra đối với khách bộ hành. Vì thế, câu chuyện của Chúa Giê-su phản ảnh thực tế đoạn đường đầy hiểm nguy này.
 
Trên con đường đó, có một người bị sa vào tay bọn cướp, “chúng lột sạch người ấy, đánh nhừ tử, rồi bỏ đi, để mặc người ấy nửa sống nửa chết”. Trước hết, một thầy tư tế, đoạn, một thầy Lê-vi đi qua con đường đó mà trở về nhà sau khi đã chu toàn nghĩa vụ của mình ở Đền Thánh. Cả hai đều gặp thấy nạn nhân nữa sống nữa chết nằm trên đường, nhưng “tránh qua bên kia mà đi”. Chúa Giê-su không nói cho chúng ta biết tại sao họ tránh qua một bên mà đi. Có thể họ không muốn mình bị ô uế qua việc đụng chạm đến xác chết (Lv 21: 11) hay lo sợ an nguy đến tính mạng của mình, vì có thể tên cướp vẫn còn ẩn khuất ở một nơi nào đó để rình. Xem ra thật hơn, Chúa Giê-su đưa hai nhân vật này vào câu chuyện vì họ là những người đại diện tầng lớp đáng kính trọng và đạo đức nhất trong xã hội Do thái để tạo nên một sắc màu tương phản với nhân vật Sa-ma-ri bị coi là tạp chủng, bị khinh bĩ, bị khai trừ, mà người Do thái ghét cay ghét đắng tránh giao tiếp. Điều Chúa Giê-su muốn nêu bật chính là hai nhân vật đáng kính và đạo đức này, sau khi đã thực thi lòng mến Chúa trong Đền Thờ lại dửng dưng trước người anh em khốn khổ bất ngờ gặp thấy trên đường.
 
Sau cùng, một người Sa-ma-ri tình cờ đi qua con đường đó. Thấy cảnh ngộ đáng thương của người bị nạn, anh “động lòng thương”. Chẳng quan tâm đến việc xem nạn nhân này là ai, thuộc dân tộc nào, theo tôn giáo nào, có quan điểm hay chính kiến nào, anh làm tất cả những gì có thể để cứu giúp nạn nhân bất hạnh này. Săn sóc tại chỗ, đưa về quán trọ, anh còn dự liệu cả hoàn cảnh khó khăn mà người này có thể gặp phải khi không có anh bên cạnh, vì thế anh nói với chủ quán: “Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém thêm bao nhiêu, thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”.
 
3. Câu hỏi của Chúa Giê-su:
 
Sau khi kể xong dụ ngôn, Chúa Giê-su hỏi trở lại vị thông luật: “Vậy theo ông nghĩ, trong ba người đó, ai đã tỏ ra là người thân cận với người đã bị rơi vào tay kẻ cướp?”. Vị thông luật trả lời: “Chính là kẻ thực thi lòng thương đối với người ấy”. Chúa Giê-su xác nhận câu trả lời của ông là đúng và mời gọi ông: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy”. Như vậy, ở đầu câu chuyện, qua câu hỏi của mình, vị thông luật nói lên nỗi bận lòng của ông là muốn phân biệt rõ ràng ai là người thân cận của tôi để tôi thực thi luật yêu người; còn ở cuối câu chuyện, câu hỏi mà Chúa Giê-su đặt ra cho ông ngầm chứa câu trả lời của Ngài: không phải “ai là người thân cận của tôi” như vị thông luật đã hỏi trước dụ ngôn, nhưng mà “ tôi phải là người thân cận của bất cứ ai cần đến sự cứu giúp của tôi trên đường đời”. Đó là cách thức “để được sự sống đời đời làm gia nghiệp” mà anh đã nêu lên ở đầu câu chuyện.
 
4. Bài học:
 
Phải chăng ở nơi nhân vật Sa-ma-ri nhân hậu này, Chúa Giê-su muốn gợi lên hành động của chính Ngài, Đấng Cứu Độ đầy lòng xót thương? Và kẻ bị đánh trọng thương, bị trấn lột, bị bỏ rơi dỡ sống dỡ chết bên đường, đó không phải thân phận của nhân loại tội lỗi bị sự Ác đè nặng nên không thể tự mình cứu mình được sao? Lời giải thích này thật sự trở nên kinh điển tại các Giáo Phụ theo lối giải thích ẩn dụ. Các ngài đã phân tích dụ ngôn này cho đến từng chi tiết, chẳng hạn như cách giải thích của thánh Âu-gút-ti-nô: Đức Giê-su đã xuống từ Giê-ru-sa-lem thiên giới để cứu chữa nhân loại bị trọng thương do tội lỗi. Dầu và rượu biểu tượng các bí tích; quán trọ là hình ảnh Giáo Hội mà Chúa Ki-tô trao gởi những tội nhân để băng bó và chữa lành, trong khi chờ đợi ngày Ngài trở lại, ngày Ngài hoàn tất ơn cứu độ của chúng ta, sau khi đã giải thoát chúng ta khỏi mọi nợ nần.
 
Tuy nhiên, theo văn mạch, mỗi độc giả phải thấy chính mình ở nơi người Sa-ma-ri nhân lành này. Chính hành động cứu giúp anh chị em khốn khổ của mình trong đời thường mới làm nên con người tôn giáo chứ không là địa vị hay chức vụ nào đi nữa, dù đó là thầy tư tế hay thầy Lê-vi đi nữa. Đối với bổn phận “yêu người”, không có bất kỳ hạn định nào, bởi vì đó là luật phổ quát nhất mà Thiên Chúa đã đặt để trong tận cõi thâm tâm của con người được gọi tiếng nói lương tâm của mỗi người: “thương người như thể thương thân”, và làm cho con người khác với con vật, như câu nói thời danh: “Chỉ có con vật mới quay lưng lại trước nỗi khổ đau của đồng loại”.
 
Như thế, qua dụ ngôn “Người Sa-ma-ri nhân hậu”, Chúa Giê-su chấm dứt tinh thần duy luật, chấm dứt chủ nghĩa dân tộc, chấm dứt sự phân biệt đối xử, chấm dứt mọi lý lẽ đưa ra để biện minh cho thái độ “tránh sang một bên” trước những nỗi khốn khổ của anh em đồng loại của mình trong cuộc sống đời thường. Nói như Lu-the: “Điều làm tôi kinh hãi không phải kẻ ác làm điều ác mà là người thiện thờ ơ lãnh đạm trước những đau khồ của anh em mình”. Tác giả Suy Niệm Lời Chúa đã nhận xét như sau: “Có những tội tiêu cực biểu lộ qua việc đắm chìm trong vũng lầy của tội lỗi; nhưng có những tội tiêu cực biểu lộ bằng sự dững dưng, thờ ơ, khoanh tay chẳng thèm làm gì. Một thái độ nhắm mắt làm ngơ cũng đủ bị kết án. Vì sự thánh thiện hay tội lỗi của một người không chỉ ảnh hưởng trên bản thân họ, mà còn lan tỏa đến những người khác, đến môi trường họ sống”.
 

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây