Lễ Chư Thánh. Giải thích Lời Chúa

Thứ hai - 27/10/2014 20:04

-

-
Vào ngày đại lễ Chư Thánh, Giáo Hội công bố đức tin của mình vào cuộc sống mai sau. Giáo Hội ca ngợi đoàn người đông đảo không tài nào đếm được, họ vui hưởng cuộc sống chan chứa bình an và ngập tràn ánh sáng bên cạnh Thiên Chúa.
LỄ CHƯ THÁNH

 
Vào ngày đại lễ Chư Thánh, Giáo Hội công bố đức tin của mình vào cuộc sống mai sau. Giáo Hội ca ngợi đoàn người đông đảo không tài nào đếm được, họ vui hưởng cuộc sống chan chứa bình an và ngập tràn ánh sáng bên cạnh Thiên Chúa. Đối với những ai đang lữ hành trên trần thế nầy, Giáo Hội đề nghị “các mối phúc thật” sẽ đưa dẫn họ về cuộc sống đời đời nầy. Ngày lễ Chư Thánh là ngày đại lễ của niềm hy vọng.
 
Kh 7: 2-4, 9-14
 
Bài Đọc I, được trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan, miêu tả một đoàn người không kể siết cử hành phụng vụ hùng vĩ tràn đầy niềm vui và tạ ơn trước ngai Thiên Chúa.
 
1Ga 3: 1-3
 
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở vận mệnh của người Kitô hữu: trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, họ được mời gọi nên đồng hình đồng dạng với Con Một, Đức Giê-su Ki-tô, và vì thế, được dự phần vào vinh quang của Ngài.
 
Mt 5: 1-12
 
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su công bố “các Mối Phúc thật”, Hiến Chương Nước Trời.
 
BÀI ĐỌC I (Kh 7: 2-4, 9-14)
 
Bài Đọc I được trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan miêu tả một đoàn người đông đúc không tài nào đếm nổi vui hưởng niềm hoan lạc thiên quốc. Lễ Chư Thánh được mừng trước Lễ Các Đẳng hình thành nên bộ đôi diễn tả đức cậy của người tín hữu.
 
1. Bối cảnh:
 
Bối cảnh thật kỳ lạ. Nhà thị kiến diễn tả những xuất thần của mình bằng thể loại văn chương khải huyền. Thể loại văn chương nầy đã được tác giả sách Đa-ni-en khai mạc vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Tác giả nầy được gợi hứng từ các vị tiền nhiệm của mình, đặc biệt thị kiến của ngôn sứ  Ê-dê-ki-en, từ đó sách Khải Huyền của thánh Gioan mượn một số lượng biểu tượng của mình.

Tuy nhiên, khi so sánh khải huyền thuộc thế kỷ thứ hai và thứ nhất trước Công Nguyên (thể loại nầy nở rộ) với khải huyền của thánh Gioan, chúng ta nhận ra sự khác biệt vô tận; kỷ nguyên thiên sai đã được loan báo nay đã xảy ra. Thời thiên sai đã đi vào trong Lịch Sử; từ đây, nó đã chiếu soi kỷ nguyên cánh chung. Trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, một dung mạo ngự trị: dung mạo Con Chiên, hình ảnh của Đức Ki-tô. Con Chiên vẫn mang những vết thương hy tế của mình, nhưng là Con Chiên khải hoàn. Như vậy, viễn cảnh mở ra một niềm hy vọng, niềm hy vọng nầy không còn là niềm ước mơ nhưng một thực tại: mọi lời hứa đã được ứng nghiệm.
 
Sách Đa-ni-en được viết vào thời kỳ bách hại của vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê, khoảng năm 175-164 trước Công Nguyên, để an ủi dân Do thái trong thử thách. Cũng vậy, sách Khải Huyền của Gioan được viết vào thời kỳ bách hại của hoàng đế Rô-ma, Domotien, cuối thế kỷ thứ nhất (91-96) - vài phần có thể được đặt vào niên biểu của cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Nê-ron (64-68) - cũng nhằm mục đích tương tự: gởi đến cho các Ki-tô hữu sứ điệp chứa chan hy vọng, cho họ thoáng thấy niềm hoan lạc thiên quốc, vì niềm hy vọng nầy thật đáng phải chịu những đau khổ kể cả sự chết.

Sách Khải Huyền là một cuốn sách mã hóa: các tín hữu bị bách hại có thể đọc và chuyền tay nhau mà không phải sợ những kẻ bách hại mình đọc được. Rô-ma không bao giờ được nêu tên, nó được gọi dưới biệt danh Ba-by-lon hay Con Thú, hay Con Điếm hoặc số 666 (con số 666 dường như tương ứng với Nê-ron Xê-da theo cách tính số của mẫu tự Do thái. Về giá trị biểu tượng, con số nầy muốn nói lên sự bất toàn tận căn, đối lập với con số 7). Nhưng cũng vì thế, chúng ta không thể nào giải mã tất cả. Tác phẩm tiên báo cuộc sụp đổ của đế quốc Rô-ma, cuộc khải hoàn của Giáo Hội và mô tả những viễn cảnh của thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
 
Bản văn mà chúng ta đọc hôm nay trình bày hai thị kiến nối tiếp nhau: thị kiến thứ nhất xảy ra ở dưới trần thế, gợi ra Giáo Hội đang chịu cảnh gian nan khốn khó và ơn cứu độ của những người công chính ở giữa những nỗi gian truân khốn khó nầy. Thị kiến thứ hai là phụng vụ tạ ơn ở trên trời được cử hành bởi một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc đủ mọi dân nước.
 
2. Thị kiến thứ nhất: nỗi gian truân dưới trần thế (7: 2-4)
 
Để hiểu ý nghĩa của thị kiến thứ nhất nầy, phải đặt nó trở lại vào trong bối cảnh lịch sử của nó. Những Ki-tô hữu bị bách hại tự hỏi những nỗi khốn cùng nầy sẽ kéo dài cho đến khi nào? Khi nào những kẻ bách hại bị trừng trị? Nhà thị kiến rõ ràng nêu lên những vấn đề nầy, và trả lời trong 6: 9-11, trước đoạn trích của chúng ta: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng kêu: ‘Lạy Cha chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải nền nợ máu chúng con?’ Bấy giờ mỗi người trong số họ được lãnh một áo trắng; và có lời phán bảo họ cứ nghỉ yên một thời gian ngắn nữa, chờ cho đủ số những người cũng là tôi tớ Thiên Chúa và là anh em của họ, sắp bị giết như họ”.
 
Như vậy, những Kitô hữu được báo trước: thời kỳ bách hại chưa chấm dứt, nhưng giờ trừng phạt của những ác nhân sẽ đến. Những tai ương khủng khiếp được loan báo trong viễn cảnh khải huyền về cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vào thời cánh chung: chiến tranh, nạn đói, ôn dịch, động đất xảy đến trước khi Thiên Chúa xét xử. Tuy nhiên, các Kitô hữu không phải lo lắng, vì Con Chiên cứu độ ngự trên ngai xét xử muôn dân. Những người công chính sẽ được Ngài đóng ấn.
 
“Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên”. Đây là biểu tượng kinh điển: chính “từ phía mặt trời mọc” nầy mà ánh sáng và sự sống đến, trong khi “phía mặt trời lặn” là dấu chỉ của bóng tối và sự chết. Hình tượng “ấn” được mượn từ Ed 9: 4: “Hãy rảo khắp thành, khắp Giê-ru-sa-lem. Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành”. Xuất xứ của đề tài nầy còn xa hơn nữa, từ sách Xuất Hành, trong đó sứ thần hủy diệt lãnh sứ mạng tràn lan các tai ương khắp xứ Ai-cập, trừ các nhà của dân Do thái được bôi máu con chiên vượt qua trên khung cửa.
 
Ấn tín được ghi trên trán các Kitô hữu thì khác, thuộc thực tại tâm linh. Thánh Gioan dùng từ “ấn tín” theo tiếng Hy-lạp mà không xác định. Chắc chắn đọc giả của ông biết ấn tín cốt là gì: thuật ngữ nầy được dùng để chỉ Phép Rửa ngay từ thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên. Ý nghĩa của nó xuất hiện rồi trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô trong mạch văn Ba Ngôi: “Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng tôi, Đấng ấy là Thiên Chúa. Chính Người cũng đã đóng ấn tín trên chúng ta và đổ Thần Khí vào lòng chúng ta làm bảo chứng” (2Cr 1: 21-22). Như vậy, qua mật mã và các biểu tượng nầy, những Ki-tô hữu bị bách hại được mời gọi nhớ lại rằng họ được Thiên Chúa đóng ấn, vì thế họ thuộc về gia đình đông đúc sở hữu cách chắc chắn ơn cứu độ đời đời.
 
Con số những người được đóng ấn là 144.000 người. Rõ ràng 144.000 là con số biểu tượng. 144 là tổng số của 12 x 12, để chỉ con số viên mãn, được nhân lên gấp ngàn lần: 144.000, con số viên mãn vô tận. 12 chi tộc là 12 chi tộc của dân Ít-ra-en mới, 12 Tông Đồ tiếp tục sự nghiệp của 12 người con của Gia-cóp / Ít-ra-en.
 
Trong viễn cảnh của mình, truyền thống khải huyền có thói quen lồng quá khứ, hiện tại và tương lai vào với nhau. Ở đây, Giáo Hội đương đầu với “quyền phá hoại đất trời”, đó là Giáo Hội muôn đời đối mặt với biết bao gian nan thử thách, nhưng được Thiên Chúa bảo vệ và che chở.
 
3. Thị kiến thứ hai: phụng vụ tạ ơn trên trời (7: 9-14)
 
Thị kiến thứ hai là việc tham dự trước thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, được mô tả ở phần cuối sách. Sau khi đã loan báo những tai ương xắp xảy đến, ngay từ bây giờ cần phải mang đến một sứ điệp chứa chan hy vọng.
 
Trong thị kiến thứ hai này, một đoàn người thật đông không tài nào đếm được phải chăng cũng là một đoàn người được đóng ấn được biểu tượng bởi con số 144.000 trong thị kiến thứ nhất?, hay nhà thị kiến đồng thời đã thoáng thấy một đoàn người công chính, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước, mọi ngôn ngữ, đã thuộc về thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội? Dù thế nào, “chiều kích ơn cứu độ phổ quát” được hàm chứa trong việc mô tả nầy, như trước đây: “…Ngài đã bị giết và lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân…” (5: 9-10).
 
Chỗ danh dự được ban cho những ai đã được phúc tử đạo: “Họ đứng trước ngai Thiên Chúa và trước Con Chiên”. “Họ mặc chiếc áo trắng” biểu tượng sự vô tội và vinh quang; “tay cầm nhành lá thiên tuế” biểu tượng sự khải hoàn; “họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao”, bởi vì “họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”.
 
Phụng vụ thiên quốc nầy rất trang trọng. Những người được tuyển chọn công bố rằng ơn cứu độ của họ phát xuất từ Thiên Chúa và Con Chiên. Các thiên thần và những nhân vật khác đều phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô: chúc tụng, vinh quang, khôn ngoan, tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh (chúng ta gặp thấy một tán tụng ca tương tự ở 5: 12). Chúng ta ghi nhận rằng Thiên Chúa chỉ được phác họa đôi nét; chỉ duy “ngai” chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, được bao quanh bởi triều thần bao gồm các thiên thần, Kỳ Mục và bốn Con Vật.
 
Ở chương 4, hai mươi bốn Kỳ Mục được trình bày đang ngồi trên các ngai, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên vàng. Họ đóng vai vừa tư tế vừa vương đế. Họ ngồi bên cạnh ngai Thiên Chúa. Đây không là thiên thần nhưng là những con người. Ở Ít-ra-en, tước vị Kỳ Mục được ban cho các thủ lãnh của dân (70 Kỳ Mục bên cạnh ông Mô-sê), cho các vị chức sắc của các hội đường và cho một phần của các thành viên Thượng Hội Đồng. Trong Giáo Hội tiên khởi, đây cũng là tước vị dành cho những vị chức sắc chịu trách nhiệm trước cộng đoàn Ki-tô hữu. Ý nghĩa của họ vẫn mầu nhiệm.
 
Bốn Con Vật kỳ bí nầy cũng được miêu tả ở chương 4: “Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt” (4: 7-8). Những dung mạo nầy được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 1: 5-21). Xuất xứ của chúng là từ Ba-by-lon. Bốn bức tượng của bốn con vật thần thoại canh giữ cung điện Ba-by-lon. Đó là các Ka-ri-bu (ngữ căn của từ “Kê-ru-bin”), các sinh vật đầu người, mình sư tử, chân bò rừng và cánh đại bàng, bốn biểu tượng của sức mạnh và quyền năng. Trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en, những sinh vật lai tạp nầy được thắng vào xe của Đức Chúa, diễn tả sự siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en.
 
Bốn Con Vật của sách Khải Huyền lấy lại bốn biểu tuợng, được phân phối trên bốn con vật tách biệt. Chúng cũng được gộp vào trong một thị kiến về Thiên Chúa ngự trên ngai trong vinh quang của Ngài, nhưng ý nghĩa của chúng thì hơi khác. Bốn con vật gợi lên bốn phương trời, nói chính xác hơn, số bốn là số chỉ vũ trụ (biểu tượng của nghệ thuật và kiến trúc tôn giáo). Chúng biểu thị sự vĩ đại, sức mạnh, sự hoàn thiện của công trình sáng tạo và sự hiện diện khắp nơi của Thiên Chúa trong công trình của Ngài (chung quanh và bên trong đầy những mắt); chúng được đồng hóa với các thiên thần, ngày đêm không ngừng ca ngợi kỳ công sáng tạo của Ngài.
 
Chúng ta biết rằng thánh I-rê-nê, thành Ly-on đã thấy bốn Con Vật nầy là biểu tượng bốn tác giả Tin Mừng, lời giải thích của thánh nhân đã xuất hiện trong tranh thánh Ki-tô giáo. Thị kiến kết thúc với việc gợi lên niềm hoan lạc của những người được tuyển chọn: “Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt của họ”.
 
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-3)
 
Đoạn văn nầy được trích từ thư thứ nhất của thánh Gioan tập trung vào một chủ đề duy nhất: “nghĩa tử của Thiên Chúa”. Người Kitô là con cái của Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha, nhưng nghĩa tử nầy sẽ trở nên viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống với Đức Kitô vào ngày Quang Lâm của Ngài.
 
1. Nghĩa tử của Thiên Chúa.
 
Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề cốt yếu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi chúng ta được gọi là con cái của Ngài. Đây không là một tước hiệu mà Ngài ban thưởng cho chúng ta, nhưng một thực tại thâm sâu: “thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Theo văn hóa Sê-mít, danh xưng diễn tả chân lý thâm sâu của con người: như vậy Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi liên kết chúng ta với Con Một của Ngài khi Ngài gọi chúng ta là “con của Ngài”. Phẩm chất nầy làm cho chúng ta khác với thế gian: đó là lý do tại sao “thế gian không nhận biết chúng ta”. Những lời nầy xem ra vang dội lời của Đức Giê-su nói với các môn đệ của mình, được tường thuật chính xác trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 19).
 
Toàn bộ bức thư nầy được xây dựng theo lối phản đề. Cuộc sống Kitô hữu đối lập với cuộc sống của những người không tin hay những người theo lạc thuyết. Ở đây, phản đề bao phủ một phạm vi rộng lớn: thế gian, theo nghĩa tiêu cực, là thế giới tội lỗi “đã không nhận biết Thiên Chúa”.
 
2. Thay hình đổi dạng trong tương lai.
 
Đoạn trích nầy có thể đặt nhan đề: “từ Phép Rửa đến việc thay hình đổi dạng”. Chúng ta được thay hình đổi dạng rồi do bởi cuộc sống con cái Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu tiên. Việc chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa chỉ thành tựu viên mãn khi chúng ta nên giống như Con Một của Ngài vào thời cánh chung. Phải chăng bản văn muốn nói rằng chiêm ngắm Người Con trong vinh quang sẽ biến đổi chúng ta? Đó không là ý tưởng mà bản văn này muốn nói vì việc chúng ta được thay hình đổi dạng được ươm mầm rồi ở nơi phẩm chất con cái Thiên Chúa của chúng ta. Lời khẳng định của vị Tông Đồ là một lời khẳng định của đức tin, nhưng cũng dựa trên kinh nghiệm: thánh Gioan đã là chứng nhân của cuộc Biến Hình, xem ra được ám chỉ trong lời Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
 
Chúng ta cũng gặp thấy sự thay hình đổi dạng trong tương lai nầy trong thư của thánh Phao-lô gởi cho giáo đoàn Phi-líp-phê: “Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Kitô từ trời xuống cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21).
 
TIN MỪNG (Mt 5: 1-12)
 
Tin Mừng hôm nay được trích từ bài diễn từ đầu tiên trong một loạt năm bài diễn từ hình thành nên cấu trúc của Tin Mừng Mát-thêu. Bài diễn từ đầu tiên nầy bao gồm các chương 5 đến 7 và được gọi là “Bài Diễn Từ Trên Núi”, vì ngay từ đầu, diễn từ nầy được định vị trong bối cảnh: “trên núi” (5: 1-2). Bài Diễn Từ Trên Núi được bắt đầu với Các Mối Phúc (5: 3-12).
 
A. Bối cảnh (5: 1-2)
 
1. “Thấy đám đông” : Diễn ngữ “đám đông” này lại xuất hiện ở cuối bài diễn từ này (7 : 28-29) để tạo thành thể đóng khung cho toàn bộ bài Diễn Từ Trên Núi.  
 
- “Đức Giê-su lên núi”: Thánh Lu-ca đặt khung cảnh bài diễn từ Các Mối Phúc “trên đồng bằng” (Lc 6: 17), còn thánh Mát-thêu thì đặt khung cảnh “trên núi” (5: 1-2). Núi là nơi thuận lợi cho những mặc khải thần linh. Chính trên núi Xi-nai, Thiên Chúa ban Lề Luật cho dân Người qua ông Mô-sê (x. Xh 24: 1-2, 9); cũng vậy, chính trên núi Ga-li-lê, Chúa Giê-su ban “Các Mối Phúc” cho dân mới của Ngài, không qua trung gian nhưng bằng chính uy quyền của Ngài. Nhưng Các Mối Phúc này không là Lề luật, càng không phải là những huấn lệnh: Chúa Giê-su đưa ra những cách sống mở lối vào Nước Trời, vì chúng cho phép họ cư xử như con cái đích thật của Thiên Chúa.
 
- “Người ngồi xuống”: Tư thế ngồi đường bệ của Đức Giê-su, tựa như một bậc tôn sư đang đăng đàn thuyết pháp (x. Mt 23: 2), cho thấy tầm quan trọng của Bài Diễn Từ Trên Núi.
 
2. “Người mở miệng dạy họ”: Thính giả của Đức Giê-su bao gồm “đám đông”“các môn đệ của Ngài”. Vì thế, sứ điệp được gởi đến cho tất cả mọi người, đặc biệt hơn cho các môn đệ. Quả thật, Diễn Từ Trên Núi là một con đường hẹp; tuy nhiên con đường này mở rộng cho tất cả mọi người, cho đám đông thân cận và cho đám đông mênh mông, vô danh, tản mác trong thời gian và không gian, cho bất kỳ ai, dù không biết Ngài, đều có thể thuộc về Nước Trời, nếu đức hạnh của họ phù hợp với sứ điệp nầy, phù hợp với khoản Giao Ước mới của Thiên Chúa với nhân loại. Chúng ta có thể nói, qua Các Mối Phúc, Đức Giê-su đã mở rộng “Kitô giáo”.
 
B. Các Mối Phúc (5: 3-12)
 
Các Mối Phúc là cửa ngõ dẫn vào “Diễn Từ Trên Núi”. Để hiểu đúng các Mối Phúc, chúng ta phải ghi nhớ trong tâm trí rằng các Mối Phúc này hứa ơn cứu độ không chỉ cho một loại người riêng biệt được liệt kê ở đây, nhưng còn bao hàm những ai mà thái độ tôn giáo và hành vi luân lý đáp ứng những đòi hỏi Đức Giê-su quy định.
 
Thật ra, những “lời chúc phúc” thuộc về thể loại văn chương Cựu Ước. Vì thế, Hiến Chương về sự thánh thiện nầy không hoàn toàn mới mẻ; nó đã được chuẩn bị lâu dài bởi giáo huấn của các ngôn sứ và các bậc hiền nhân của Cựu Ước. Những người nghèo, khiêm hạ, công chính, những người có tấm lòng thanh sạch, … được thánh vịnh gia tán dương. Đức Giê-su minh nhiên quy chiếu đến những bản văn Cựu Ước nầy. Nhưng những đức hạnh hoàn thiện được phác họa ở đây xem ra có thể được thực hiện chỉ trong thời đại thiên sai. Chính xác, Đức Giê-su kiện toàn chúng ở nơi con người của Ngài. Khi công bố những mối phúc nầy, Chúa Giê-su mặc khải cho chúng ta rằng hạnh phúc đích thật ở trong tầm tay của chúng ta, bởi vì Đấng loan báo các Mối Phúc này là Thiên Chúa, cội nguồn của tất cả những gì có thể làm cho chúng ta mãn nguyện, như lời xác tín của thánh vịnh gia : “Chúa là hạnh phúc là gia nghiệp đời con, vì ngoài Chúa ra con tìm đâu thấy hạnh phúc và tình yêu đời đời”.
 
Xét về cấu trúc của từng Mối Phúc, mỗi Mối Phúc gồm có ba phần: phần đầu là lời công bố “Phúc thay”, phần hai nói về người được hưởng Mối Phúc, và phần ba là nền tảng của Mối Phúc. Nền tảng của Mối Phúc này luôn luôn là hành động của Thiên Chúa, được khẳng định rõ ràng và được đoan hứa chắc chắn. Còn người được hưởng Mối Phúc chính là những người thực hiện một cách sống hay một thái độ được qui định trong Mối Phúc. Họ được tuyên bố là “Phúc thay”, bởi vì hành động của Thiên Chúa chắc chắn được dành cho họ. 
 
Xét về cấu trúc của toàn bộ các Mối Phúc, tám Mối Phúc đầu tạo nên một tổng thể riêng được đóng khung bởi hai kiểu nói y như nhau: “Vì Nước Trời là của họ” (5: 3 và 10); còn Mối Phúc thứ chín (5: 11-12) chỉ là hiện thực hóa Mối Phúc thứ tám (5: 10) vào cuộc đời của các môn đệ Chúa Giê-su.
 
a. “Bát Phúc” được ngỏ lời với tất cả mọi người (5: 3-10)
 
3. “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”: Thánh Lu-ca nói một cách giản dị: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khổ” (Lc 6: 20). Khi viết: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó”, thánh Mát-thêu mở rộng viễn cảnh cho tất cả những ai có tấm lòng nghèo khó, phù hợp với chiều hướng nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su muốn. Sự nghèo khó không được ca ngợi ở nơi chính nó, bởi vì sự nghèo khó có thể do sự biếng nhác, ăn không ngồi rồi, nhưng ở nơi sự giải thoát khỏi mọi gắn bó với của cải trần thế và mở rộng lòng mình ra đón nhận sự giàu có tinh thần.
 
Mối Phúc này phác thảo sự nối kết giữa sự nghèo khó và tâm hồn. Quan niệm tôn giáo về sự nghèo khó đã cắm rể sâu trong Cựu Ước (x. vd. Xp 2: 3tt.). Mối Phúc này có liên quan đến thái độ tôn giáo về sự túng thiếu và lòng khiêm hạ đối với Chúa hơn là đến sự nghèo khó vật chất: người được gọi là người nghèo của Thiên Chúa là người trông cậy vào Thiên Chúa và tin tưởng vào lòng xót thương của Người, chỉ duy mình Thiên Chúa là Đấng Cứu Độ của mình. Thái độ tôn giáo về sự nghèo khó này có mối liên hệ mật thiết với điều được gọi “tinh thần trẻ thơ”. Người Ki-tô hữu thấy mình là một trẻ thơ trong sự hiện diện của Thiên Chúa, một con trẻ không có gì cả; những gì mình có đều đến từ Thiên Chúa và thuộc về Thiên Chúa.
 
Cuối cùng, khía cạnh Mê-si-a của mối phúc nầy thật hiển nhiên: Đức Giê-su sinh ra trong cảnh nghèo hèn và chết trong sự trần trụi để là quà tặng của Thiên Chúa được trao ban trọn vẹn cho con người. Đối với những ai lắng nghe Ngài và từ bỏ mọi sự mà theo Ngài, Ngài sẽ sai họ ra đi trên mọi nẽo đường thế giới, không tiền bạc, không bao bị, hoàn toàn trơ trụi, nhưng giàu có tận mức sứ điệp tinh thần mà họ công bố.
 
4. “Phúc thay ai hiền lành”. Mối phúc nầy được gợi hứng từ Thánh Vịnh 37, Thánh Vịnh này gợi ra số phận khác nhau giữa những người công chính và quân gian ác: “Ít lâu nữa ác nhân sẽ chẳng còn, đến chỗ xưa cũng không tìm thấy hắn. Còn kẻ nghèo hèn được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng cảnh an lạc chan hòa” (Tv 37: 10-11). Đức tính hiền lành được nêu lên ở đây là một sự hiền lành không nhu nhược: đó cũng là sự hiền lành của Đức Giê-su, mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhiều lần: “Hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11: 29). Và trong chương 12 của mình, thánh Mát-thêu nhắc lại cung cách hiền lành của “Người Tôi Tớ”, dung mạo huyền bí này được hiện thực ở nơi Đức Giê-su.
 
- “Vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp”: “Đất Hứa” là đất Ca-na-an. Chủ đề nầy vọng lên đến tận lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Áp-ra-ham (St 15: 7; 28: 4), được triển khai phong phú trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 1: 8, 39; 4: 1, 5, 14…), nhưng mang lấy sắc thái cánh chung trong sách I-sai-a (Is 57: 13; 60: 21; 65: 9), và sẽ vang dội trong sách Khải Huyền, ở đó cốt là thành thánh Giê-ru-sa-lem trên trời (Kh 21: 2). Trong Tin Mừng Mát-thêu, “Đất Hứa” không còn là đất Ca-na-an nữa, nhưng mang một ý nghĩa tinh thần như trong Các Mối Phúc khác. Cũng cách thức tinh thần hóa như vậy, chủ đề “thừa hưởng” thường trở đi trở lại trong Tân Ước: chung chung, người ta thích kiểu nói “thừa hưởng Nước Trời” (Mt 25: 34; 1Cr 6: 9-10…) “thừa hưởng sự sống đời đời” (Mt 19: 29; Mc 10: 27; Lc 10: 25…) hơn là “thừa hưởng đất làm gia nghiệp”.
 
5. “Phúc thay ai sầu khổ”. Đây là Mối Phúc mâu thuẫn nhất trong Các Mối Phúc, nhưng có thể cũng mang chiều kích Mê-si-a nhất. Chúa Giê-su không đề nghị hủy bỏ sự sầu khổ, nhưng rút ra từ đó một giá trị vượt qua nó, nâng cao nó và có thể biến nó thành nguồn vui. Niềm vui hiện tại – khó đạt được – được bổ túc bởi viễn cảnh của niềm vui tương lai, trong Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 3).
 
Tuy nhiên, không nên ngộ nhận viễn cảnh của thánh Mát-thêu. Tác giả Tin Mừng nầy rất quan tâm đến chiều kích tinh thần của Các Mối Phúc. Thánh ký chắc chắn chủ yếu nhắm đến nỗi sầu muộn của các tín hữu đối mặt với thực tại trong đó sự ác chiến thắng trên những ý định của Thiên Chúa. Trên hết, Đức Giê-su hoàn lại niềm hy vọng cho những người công chính và đảm bảo cho họ cuộc chiến thắng tối hậu trên sự ác và sự chết.
 
- “Vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an”: Trải qua tất cả những gian nan thử thách của mình, dân Ít-ra-en đã luôn luôn sống trong nỗi trông chờ được Thiên Chúa ủi an. Trong truyền thống Do thái, việc Đấng Mê-si-a đến được gọi là “niềm an ủi của Ít-ra-en”, trong Tin Mừng, cụ già Si-mê-on cũng mong chờ và được gặp thấy “niềm an ủi của Ít-ra-en” ở nơi Hài Nhi Giê-su mà cụ được bồng ẩm trong tay. Không ai có thể chối cải, Đức Giê-su là Đấng an ủi những người nghèo khó, đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền và tội lỗi: Ngài chữa lành, nâng dậy, đổi mới cuộc đời của họ: “Tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Cuối cùng, Ngài dâng hiến cho những ai sầu khổ một niềm ủi an tuyệt mức khi chính Ngài dự phần vào những cơn hấp hối khủng khiếp của cái chết.
 
6. “Phúc cho ai khao khát nên người công chính”. Thánh Lu-ca viết: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no thỏa” (Lc 6: 21), nghĩa là, sẽ xảy ra một sự đảo lộn những hoàn cảnh trong Nước Chúa; còn thánh Mát-thêu, như trước đây, thì lại tinh thần hóa Mối Phúc nầy: “Phúc cho ai đói khát nên người công chính”.
 
Chữ “công chính” mà Đức Giê-su công bố, chất nặng lịch sử Kinh Thánh nên không thể được hiểu thuần túy theo nét nghĩa thông thường hiện nay về sự công bình trần thế. Chắc chắn sự công bình trần thế hàm chứa ở đây, nhưng rất gián tiếp. Người công chính trong Cựu Ước và trong Tin Mừng (cụ già Si-mê-on, thánh Giu-se, vân vân) là một con người mà cách sống của họ luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Đó là lý tưởng hoàn thiện mà một người đạo hạnh nhắm đến. Đức “công chính” chính là lý tưởng nầy. Vì thế, chữ “thánh thiện” là từ thích hợp nhất để diễn tả đức công chính. Đức Giê-su định vị đức công chính nầy như tiếp nối nhưng vượt qua đức công chính của Lề Luật: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng vào Nước Trời” (Mt 5: 20), bởi vì sự thánh thiện của những “người công chính” đích thật theo hình ảnh sự công chính của Thiên Chúa, nên đây là một nhân đức siêu việt, nó vốn nội tại trong cõi thâm sâu của đời sống. Những ai hết lòng hết dạ khao khát nhân đức nầy, sẽ được mãn nguyện– trên bình diện tinh thần.
 
7. “Phúc thay ai xót thương người”. Trong Cựu Ước, lòng xót thương thường được liên kết với sự công bình (theo nghĩa pháp lý). Quả thật, chính nhờ lòng xót thương mà tình yêu và công lý gặp gỡ nhau; quả thật đây là một khía cạnh của tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa đặc biệt đối với tội nhân. Ít-ra-en đã thụ hưởng tấm lòng nhân hậu nầy nhiều lần trong suốt lịch sử của mình và đã ca ngợi Đức Chúa là “Thiên Chúa giàu lòng xót thương” (x. Gioan-Phaolô II, Dives in misericordia, tr. 18-25). Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su khai triển Mối Phúc nầy: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ…Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6: 36-38). Như vậy, lòng xót thương không chỉ việc bố thí cho người nghèo khổ, nhưng cũng hiểu biết những bất toàn của tha nhân, bao dung, giúp đỡ họ đối mặt với những bất toàn và yêu mến họ bất chấp những bất toàn của họ là gì đi nữa. Xót thương người cũng có nghĩa cùng chia vui xẻ buồn với tha nhân.
 
8. “Phúc thay ai có tấm lòng thanh sạch”. Cách diễn tả: “tấm lòng thanh sạch” là diễn ngữ Kinh Thánh. “Tấm lòng thanh sạch” đối lập với sự thanh sạch nghi thức, hoàn toàn bên ngoài, không thể mang lại sự thanh sạch bên trong. Các tác giả thánh vịnh ca ngợi “kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 24); “Thiên Chúa nhân hậu biết là dường nào …với những kẻ có lòng trong sạch!” (Tv 73). Trong lời cầu nguyện của mình, các tín hữu kêu cầu Thiên Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51). “Tấm lòng”, theo ngôn ngữ Híp-ri, chỉ chiều kích sâu thẳm của con người. Chúa Giê-su lấy lại cách diễn tả nầy vì nó nêu bật nét đặc trưng của chiều kích nội tâm hóa luật luân lý. Sau nầy, Ngài quở trách những người Pha-ri-sêu chỉ “rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những gian ác” (Mt 9: 6; 23: 25).
 
Tâm hồn trong sạch là một ân ban của Thiên Chúa, được bày tỏ ra ở nơi khả năng yêu thương, ở nơi thái độ thanh khiết và ngay thẳng về những gì cao quý. Như thánh Phao-lô nói: “Những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý” (Pl 4: 8). Được ơn Chúa phù trợ, người Ki-tô hữu phải thường hằng ra sức gạn đục khơi trong tâm hồn mình và đạt cho bằng được sự thuần khiết này, mà phần thưởng là “được nhìn thấy Thiên Chúa”.
 
9. “Phúc thay ai xây dựng hòa bình”. Mối Phúc nầy mang một chiều kích Mê-si-a: “Vị vua công minh” đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo là “Hoàng Tử Bình An” (Is 9: 6.). Thật vậy, hòa bình và công lý xã hội được gắn bó mật thiết với nhau trong Cựu Ước. Người ta không thể nào có được nền hòa bình đích thật nếu hòa bình đó không được xây dựng trên nền tảng công lý. Vì thế, Mối Phúc nầy đích thật là lời mời gọi gởi đến con người để mời gọi họ hãy làm cho công lý ngự trị giữa họ. Đó là những người kiến tạo hòa bình mà Chúa Giê-su muốn nói đến ở nơi Mối Phúc này.
 
- “Họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa”: Đây là một kiểu nói Do thái thường được gặp thấy trong Kinh Thánh, đồng nghĩa với “họ sẽ là con cái Thiên Chúa”. Thư thứ nhất của thánh Gioan cung cấp một lời giải thích cụ thể về Mối Phúc này: “Anh em hãy xem Chúa Cha yêu thương chúng ta dường nào, đến nỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa – mà thật sự chúng ta là con Thiên Chúa” (1Ga 3: 1). Chúa Giê-su đã để lại cho các tông đồ của Ngài “Bình An của Ngài”, vả lại, bình an nầy được định vị trong dòng chảy liên tục của tình yêu. Theo bước chân của Ngài, những người kiến tạo hòa bình sẽ được gọi “con Thiên Chúa” như Ngài.
 
10. “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính”. Điều Mối Phúc này muốn nói chính là phúc thay những người bị bách hại vì họ là thánh, hay vì họ đang phấn đấu nên thánh, vì Nước Trời là của họ. Nói cách cụ thể hơn, những người này không sống cho hạnh phúc của riêng mình nhưng dám hy sinh cả mạng sống mình vì hạnh phúc của tha nhân. Chính vì lẽ đó họ bị bách hại. Cuộc đời của họ, dù không biết Đức Giê-su, phản ảnh cuộc đời của Đức Giê-su.
 
- “Vì Nước Trời là của họ”: Mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám loan báo cho chúng ta rằng Nước Trời hiện diện rồi: “Vì Nước Trời của họ” (5: 3 và 10), trong khi sáu mối phúc khác, nằm ở giữa thể loại đóng khung nầy, vẫn còn là lời hứa trong tương lai: “Vì họ sẽ được…”. Sự căng thẳng giữa hiện thực và lời hứa, giữa hiện tại và tương lai, xuất hiện ngay từ đầu, ở giữa lòng sự thành tựu. Nó bày tỏ vừa tính dứt khoát vừa tính lịch sử của Vương Quốc nầy, Vương Quốc đang trương rộng ra trên toàn thế giới. Sự căng thẳng nầy bày tỏ điều mà chúng ta gọi chiều kích “cánh chung” của Nước Trời.
 
Tất cả các Mối Phúc nói trên đều có ý nghĩa cánh chung, nghĩa là, chúng hứa cho chúng ta ơn cứu độ dứt khoát không trong cõi thế này, nhưng trong thế giới mai hậu. Tuy vậy, tinh thần của các Mối Phúc có thể đem lại cho những ai tin tưởng vào Chúa Giê-su sự bình an ở giữa lòng những nỗi gian truân ngay trong cuộc sống này. Các Mối Phúc hàm chứa một cách tiếp cận hoàn toàn mới, khá xung đột với cách thông thường mà con người đánh giá những sự vật: chúng loại trừ quan niệm duy vật của nhóm Biệt Phái, theo đó hạnh phúc trần thế được xem như lời chúc phúc từ Thiên Chúa và như phần thưởng dành cho thiện nhân, còn bất hạnh và vô phúc được xem như án phạt. Trong mọi thời, các Mối Phúc đặt của cải tinh thần trên bình diện cao hơn nhiều những của cải vật chất. Dù là người khỏe mạnh hay người ốm đau, dù là người quyền thế hay người hèn mọn, dù là người giàu có hay người nghèo khổ, tất cả đều được kêu gọi hướng đến hạnh phúc sâu xa mà họ nghiệm thấy khi sống theo các Mối Phúc Chúa Giê-su dạy. Dĩ nhiên, các Mối Phúc không chứa đựng toàn bộ giáo huấn của sách Tin Mừng, nhưng chúng chứa đựng những đường nét phôi thai của toàn bộ chương trình hoàn thiện Ki-tô giáo.
 
b. Hiện thực hóa Mối Phúc thứ tám vào cuộc sống của các môn đệ (5: 11-12)
 
Ở câu 11, bài diễn từ đột nhiên chuyển qua ngôi thứ hai số nhiều: “Phúc thay anh em…”, thay vì ngôi thứ ba số ít: “Phúc thay ai…” như các mối phúc trước đó. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc thứ tám và Mối Phúc thứ chín đều ca ngợi những người bị bách hại. Trong khi Mối Phúc thứ tám mang chiều kích phổ quát, được gởi đến với toàn thể nhân loại: “Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính”, thì Mối Phúc thứ chín được ngỏ lời trực tiếp với các môn đệ: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”. Như vậy, Mối Phúc thứ chín đóng vai trò hiện tại hóa Mối Phúc thứ tám vào trong hoàn cảnh của các môn đệ như một sự chuyển tiếp từ lý tưởng được đề nghị: “vì sống công chính” đến thực tại cụ thể được cảm thấy và được sống: “vì Thầy”. Ở vào giây phút các môn đệ bị bách hại và bị giết chết, nếu họ chấp nhận đặt mối liên hệ trực tiếp với Đấng công bố Các Mối Phúc nầy, họ có thể khám phá rằng Mối Phúc này được thành tựu ở nơi họ. Vào giây phút người môn đệ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử Nạn của Đức Kitô, người ấy nhận thức rằng Nước Trời thực sự đã đến. Cũng thế, phần thưởng lớn lao dành cho họ là “ở trên trời” (5: 12). Phần thưởng nầy, nói một cách chính xác, không là bất cứ cái gì khác ngoài hiện thực hóa sự thành tựu mà Đức Giê-su mang đến, chính Ngài đưa họ vào “trong Nước Trời,” nghĩa là, vào trong thực tại của Chúa Cha ở trên trời.
 
Quả thật, phúc thay ai chịu bách hại vì trung thành với Đức Giê-su Ki-tô và chịu đựng không chỉ một cách kiên nhẫn mà còn vui mừng. Những hoàn cảnh phát sinh trong cuộc sống Ki-tô hữu kêu gọi dũng khí – theo đó không có bất kỳ sự thỏa hiệp nào: hoặc là trung thành với Đức Giê-su Ki-tô bằng mọi giá dù phải hy sinh thanh danh, mạng sống hay của cải hay từ chối Ngài. Vì thế, thánh Bê-na-đô nói rằng Mối Phúc thứ tám như là đặc quyền của các Thánh Tử Đạo Ki-tô giáo. Người Ki-tô hữu nào trung thành với giáo huấn của Đức Giê-su thật sự là một người tử đạo (một chứng nhân), người ấy suy nghĩ hay hành động phù hợp với Mối Phúc này, thậm chí nếu như người ấy không phải chịu chết về phương diện thể lý. Như vậy, Mối Phúc thứ chín thăng hoa Các Mối Phúc khác. Các nhà thần học nhấn mạnh tính chất Kitô học của Mối Phúc thứ chín nầy: ai dám hứa phần thưởng Nước Trời cho những người phải chịu đau khổ “vì mình,” nếu không là Đấng có thể sánh ngang bằng với Thiên Chúa?
 
Chúa Giê-su đã nhiều lần báo trước cho các môn đệ mình về những bách hại mà họ sẽ phải chịu. Vào lúc thánh Mát-thêu soạn thảo Tin Mừng của mình, những lời báo trước nầy đã trở thành những thực tại khắc nghiệt. Giáo Hội Pa-lét-tin chịu những cuộc công kích liên tục từ phía những người Do thái nhiệt thành với luật cũ, họ xem những người cải đạo Kitô như những kẻ bội giáo. Rồi, thánh Tê-pha-nô bị một đám đông giận dữ ném đá cho đến chết, thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan Tin Mừng, bị xử trảm vào năm 44. Thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và những người bạn đồng hành của họ bị truy bắt, đánh đập, giam tù…Tiếp đó là những cuộc bách hại từ phía chính quyền dân sự Rô-ma. Nhưng sách Công Vụ nói với chúng ta rằng các tông đồ, dù bị bách hại như thế, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Kitô” (Cv 5: 41). 

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập545
  • Hôm nay91,605
  • Tháng hiện tại918,463
  • Tổng lượt truy cập57,020,100
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây