CN 6 TN A (Giải thích Lời Chúa)

Thứ ba - 08/02/2011 12:10

Lề Luật.

Lề Luật.
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, cả ba bài đọc đều đều trả lời cho một vấn nạn: sự khôn ngoan của Thiên Chúa cốt yếu là điều gì?

CHÚA NHẬT VI THƯỜNG NIÊN

Lm Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, cả ba bài đọc đều đều trả lời cho một vấn nạn: sự khôn ngoan của Thiên Chúa cốt yếu là điều gì?

Hc 15: 15-20

Hiền nhân Ben Xi-ra trả lời, sự khôn ngoan của Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tôn trọng sự tự do của con người.

1Cr 2: 6-10

Thánh Phao-lô tuyên bố, sự khôn ngoan của Thiên Chúa là sự khôn ngoan mà Tin Mừng công bố. Mầu nhiệm được ẩn dấu từ muôn thuở đã được Đức Ki-tô mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần, đó không gì khác hơn là kế hoạch của Thiên Chúa trên nhân loại: cho họ dự phần vào vinh quang của Ngài.

Mt 5: 17-37

Luật Cựu Ước được xem như cách diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Chúa Giê-su công bố rằng Ngài đến không để bãi bỏ nhưng để kiện toàn Lề Luật: những đòi hỏi mà Ngài thêm vào Lề Luật đặt quyền ưu tiên cho thái độ nội tâm. Luật Mới đã vượt qua Luật Cũ một cách sâu xa khi nó đặt người Ki-tô hữu dưới cái nhìn của Thiên Chúa chứ không của con người.

BÀI ĐỌC I (Hc 15: 16-21)

Bản văn này rất nổi tiếng vì nó là một trong những tham chiếu kinh điển thần học về vấn đề sự tự do của con người.

Tác giả là một hiền nhân Do thái, sống ở Giê-ru-sa-lem vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Ông đã mở trường và đào tạo môn sinh và ghi lại những hoa trái kinh nghiệm và những gẫm suy thế sự của ông.

1. Bối cảnh:

Vào lúc đó, dân Ít-ra-en đang trải qua một khúc quanh lịch sử của mình. Sau khi được trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon và rồi bắt tay vào việc tái thiết Đền Thờ (521 trước Công Nguyên), Do Thái giáo đã ý thức về chính mình. Ấy vậy, sau những cuộc chinh phục của đế quốc Hy-lạp (336-323 trước Công Nguyên), Đông Phương mở rộng cửa đón nhận văn hóa Hy-lạp. Vào năm 250 trước Công Nguyên, nền văn hóa Hy lạp tràn ngập khắp miền Pha-lệ-tinh; những môi trường quý tộc ở Giê-ru-sa-lem sẳn sàng đón nhận nền văn hóa này.

Vốn là người có tinh thần cởi mở, ông Ben Xi-ra không ngần ngại tiếp thu những tinh hoa đích thật của nền văn hóa mới. Và là một người nhìn xa thấy rộng, ông sáng suốt thấy trước một mối nguy. Một câu hỏi được đặt ra: Do Thái giáo sắp đánh mất tâm hồn của mình chứ? Được nuôi dưỡng bởi nguồn mạch Kinh Thánh, ông Si-rác vực dậy niềm tin và sức mạnh của các truyền thống lâu đời của cha ông: Lề Luật biểu lộ thánh ý của Thiên Chúa, vì thế, hàm chứa sự khôn ngoan đích thật, cũng như niềm tôn kính đối với chức vụ tư tế, Đền Thờ và những thực hành nghi lễ. Ông biên soạn một cẩm nang dạy cách ăn nếp ở cho người Do thái trung thành, những người muốn cưỡng kháng lại những ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp.

2. Bố cục:

Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri. Nhưng khoảng năm mươi năm sau, vào khoảng năm 130 trước Công Nguyên, cháu nội của ông dịch tác phẩm này sang Hy ngữ.

Sách của ông là một loại bách khoa; nhiều chủ đề đa dạng được đề cập ở đây, không có trật tự xác định, nhưng chung chung được hợp thành nhóm theo chủ đề.

Đoạn văn chúng ta bàn đến sự tự do của con người, gồm có ba phần:

- khẳng định con người có quyền chọn lựa,

- khẳng định sự khôn ngoan của Thiên Chúa, Người toàn năng và thông biết mọi sự, điều này xem ra đi ngược lại với sự tự do của con người,

- Giải pháp được phác họa dưới hình thức phủ định ở nơi hai câu cuối cùng.

- Con người có quyền chọn lựa:

“Nếu muốn, bạn có thể giữ các giới răn, và trung thành làm điều Chúa ưa thích”. Tùy thuộc vào sự chọn lựa của bạn. Lời khẳng định này được diễn tả rõ ràng con người có quyền chọn lựa và đưa ra quyết định. Thiên Chúa đã đặt lửa và nước trước mặt bạn. Bạn có quyền chọn lựa hai ngã đường giữa sự sống (nước) hay sự chết (lửa).

Theo truyền thống Kinh Thánh, sự sống được liên kết với việc thực thi Lề Luật. Chúng ta có thể trích dẫn nhiều bản văn theo chiều hướng này, như Đnl 30: 15-20: “Hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai họa. Hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lới của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống, được thêm đông đúc, và Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chúc phúc cho anh em trong miền đất anh em sắp vào chiếm hữu…Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên mặt đất…Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em: tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa” (x. Gr 21: 8; Cn 8: 8-9).  Đây không cốt là sự sống đời đời, bởi vì vào thời hiền nhân Ben Xi-ra, Do Thái giáo chưa có khái niệm này, nhưng là những ân huệ mà Thiên Chúa ban, những lời chúc phúc mà Thiên Chúa đã hứa cho những chính nhân.

Vài bản văn Cựu Ước có thể khiến nghĩ rằng Thiên Chúa điều khiển mọi hành động của con người, thậm chí những hành động xấu. Tuy nhiên sự tự do của con người được khẳng định ngay từ sách Sáng Thế. Thiên Chúa dựng nên con người là những nhân vị tự do nên Người đặt họ trước hai ngã đường cần phải chọn lựa: con đường lành dẫn đến sự sống và con đường dữ dẫn đến sự chết. Con người hoàn toàn có quyền làm chủ vận mệnh của mình, chứ không phải là những con rối trong tay các thần minh như trong các câu chuyện thần thoại ngoại giáo. Đó là sự cao cả của con người nhưng cũng là căn nguyên của những bi thảm mà con người không ngừng gặp phải trong suốt dòng chảy lịch sử của mình. Vì thế, tội lỗi là trách nhiệm của con người. Các tác giả Kinh Thánh thường hằng đề cao sự chọn lựa của con người hoặc ăn năn sám hối hay cứ ngoan cố trong sự bất tín. Nhiều lần Kinh Thánh gợi lên sự nhẫn nại của Thiên Chúa, Đấng hy vọng, chờ đợi tội nhân trở về với Ngài. Nói tóm lại, phúc cho những ai biết dùng sự tự do để đáp lại tiếng gọi của Thiên Chúa và thực thi thánh ý của Người.

- Sự khôn ngoan của Thiên Chúa:

Đối diện với sự tự do của con người là sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Nhưng ngay lập tức, hiền nhân Ben Xi-ra đặt lên đầu sự khôn ngoan của Thiên Chúa: “Vì trí khôn ngoan của Thiên Chúa thật là lớn lao, Người toàn năng và trông thấy tất cả”.

Sự khôn ngoan của Thiên Chúa xem ra đi ngược lại với sự tự do của chúng ta.

- Giải pháp:

Hiền nhân Ben Xi-ra thoáng thấy một giải pháp; ông diễn tả nó theo cách phủ định ở nơi hai câu cuối cùng: “Chúa không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội”. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa, đối chiếu với sự tư do của con người, là không để mặc cho con người phải mò mẫn trong tối tăm; trái lại Ngài không ngừng lôi kéo con người hướng về điều Thiện mà không áp đặt trên con người: “Chúa để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người”, nghĩa là Ngài ra tay trợ giúp họ. Con người được kêu mời nên thánh, nhưng cần phải nương tựa vào ân sủng.

Tác giả một đằng khẳng định rằng con người có tự do, muốn tuân giữ các giới luật hay không là tùy mình; đằng khác, ông cũng khẳng định rằng Thiên Chúa hằng sống muốn những con người sống thi hành giới luật Ngài một cách hoàn toàn tự nguyện.

BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 6-10)

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn văn chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Phao-lô đã nhắc cho các tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng thánh nhân đã trình bày Tin Mừng cho họ như thế nào, bằng những ngôn từ hoàn toàn đơn sơ mộc mạc, không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu.

1. Sự khôn ngoan của Tin Mừng:

Nhưng khi ngỏ lời với những tín hữu gốc Hy lạp, thánh nhân không thể bỏ qua sự khôn ngoan. Thánh nhân cũng quan tâm chứng mình rằng có sự “khôn ngoan của Tin Mừng”, việc gắn bó với đức tin dẫn đưa chúng ta thậm chí vào tận nơi lòng của sự khôn ngoan cao cả.

Đây không là sáng kiến của thánh Phao-lô. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã được trào lưu minh triết Cựu Ước ca ngợi rồi. Nhưng sự khôn ngoan này đã mặc lấy một khía cạnh mới với việc Chúa Ki-tô ngự đến giữa loài người; sự khôn ngoan này bao hàm một mầu nhiệm: mầu nhiệm này đã được mặc khải ở nơi con người của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô dùng từ “mầu nhiệm” không theo nghĩa Hy-lạp: một bí mật phải được giữ kín, nhưng theo nghĩa của các sách khải huyền Do thái: kế hoạch mà Thiên Chúa tiền định từ trước muôn đời nay được vén mở.

2. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa:

Trước tiên, thánh Phao-lô đưa ra hai khía cạnh tiêu cực của sự khôn ngoan, hay đúng hơn, khía cạnh đầu tiên là bút chiến: sự khôn ngoan này chỉ đạt đến cho “các tín hữu trưởng thành”, mũi tên được nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô này, những người bày tỏ thiếu trưởng thành qua những tranh cãi trẻ con.

Sự khôn ngoan này cũng không phải sự khôn ngoan của thế gian: những thủ lãnh nắm quyền thống trị thế gian: chắc chắn cốt là những thế lực ma quỷ nhưng cũng là thế lực của những kẻ hám danh lợi trên cõi thế này, đặc biệt những quyền lực chính trị, như thánh nhân xác định sau này.

Tiếp đó, thánh Phao-lô đề cập đến khí cạnh tích cực của sự khôn ngoan Ki-tô giáo, đó là biết được ý định của Thiên Chúa đã được tiền định từ trước muôn đời, nhưng nay được bày tỏ ra:cho con người được dự phần vào vinh hiển của Ngài. 

Không một ai ngay cả các thủ lãnh thế gian này đã biết được kế hoạch của Thiên Chúa, vì thế, họ đã đóng đinh “Đức Chúa vinh hiển vào thập giá”. Thánh Phao-lô cho Đức Ki-tô một tước hiệu mà Cựu Ước dành riêng cho Thiên Chúa. Thánh Phao-lô luôn luôn nhận ra ở nơi Đức Giê-su là “Chúa”, như vậy hàm chứa Thần Tính của Ngài. Ở đây thánh nhân nhấn mạnh “sự hiệp nhất Thần Tính”. Ngoài ra, khi lấy lại từ ngữ “vinh quang”, thánh Phao-lô chỉ ra rằng chính qua Chúa Ki-tô mà chúng ta mới có thể dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.

3. Sự khôn ngoan cao vời khôn ví:

Vận mệnh vinh quang này mà Thiên Chúa chuẩn bị sẳn cho những ai yêu mến Người thì không thể nào nghi ngờ được. Thánh Phao-lô trích dẫn khá tự do một đoạn văn của Is 64: 3: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẳn cho những ai mến yêu Người”. Sự khôn ngoan cao vời của Thiên Chúa không ai có thể đạt đến được nếu không có mặc khải, “còn chúng tôi, chúng tôi đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí”.

Đại từ “chúng tôi” này chỉ  thánh nhân và những cộng tác viên của thánh nhân. Thánh nhân thường nhấn mạnh ơn thần khải mà sứ vụ tông đồ hưởng được. Thánh nhân đã có kinh nghiệm trực tiếp về điều này. Dù thánh nhân đã không sống với Đức Ki-tô, nhưng đã đón nhận ơn gọi độc nhất vô nhị: ánh sáng trên đường Đa-mát không ngừng soi sáng thánh nhân.

TIN MỪNG (Mt 5: 17-37)

Sau khi đã trình bày cho các môn đệ Ngài một cách tổng quát cách ăn nếp ở được chỉ ra trong bản hiến chương các Mối Phúc, Chúa Giê-su sắp đi vào chi tiết và đối chiếu bản hiến chương này với Luật Mô-sê.

1. Đức Giê-su kiện toàn Lề Luật:

“Anh em đừng tưởng rằng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ”. Diễn ngữ: “Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ” là cách nói để chỉ toàn bộ Cựu Ước (x. 7: 12; 11: 13; 24: 40).

 “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Đây là cách nói thông thường trong văn chương vào thời ấy: “Đừng chạm tới một chấm một phết của Lề Luật”, và thường được các kinh sư ưa thích lập đi lập lại, qua đó họ muốn lưu ý rằng họ hài lòng chú giải Lề Luật, nhưng không bao giờ cho phép mình sửa đổi bất kỳ một chi tiết nhỏ nhặt nào của Lề Luật.

Chúa Giê-su hạn định lời khẳng định của mình: “cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Chắc chắn phải hiểu cho đến khi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài thiết lập một trật tự mới.

2. Được gọi là những kẻ nhỏ nhất hay lớn nhất trong Nước Trời:

Những cách nói này không diễn tả cơ cấu phẩm trật: nhỏ hay lớn; đây là cách thức sê-mít bày tỏ sự tán thành hay không tán thành đối với cách hành xử của một người nào đó.

Việc ca ngợi Lề Luật và tuân giữ Lề Luật dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất khó ăn khớp với giáo huấn theo sau của Chúa Giê-su, Ngài sắp lật đổ Lề Luật này và thay đổi nó trên nhiều điểm quan trọng.

Nhưng đừng quên rằng thánh Mát-thêu ngỏ lời chủ yếu với người Do thái cải đạo hay người Do thái muốn cải đạo. Điều quan trọng là phải chỉ cho họ thấy rằng Chúa Giê-su đã không thực sự hủy bỏ Lề Luật nhưng kiện toàn Lề Luật, nghĩa là đem Lề Luật đến chỗ thập toàn, đạt đến ý nghĩa tròn đầy, ít nhất trong những lệnh truyền luân lý của Lề Luật (những chỉ thị nghi lễ nhất thiết trở nên lỗi thời đối với những Ki tô hữu gốc Do thái).  Như thế, Chúa Giê-su khẳng định có một sự nối tiếp và nên trọn từ Cựu Ước sang Tân Ước.

Mặt khác, mạch văn trực tiếp không loại trừ tính bút chiến chống lại những người Pha-ri-sêu. Ấy vậy, Chúa Giê-su đã trách cứ những người này không phải vì họ tuân giữ Lề Luật cho đến những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng vì họ tin rằng việc tuân giữ này miễn cho họ khỏi thực hành những nhân đức. Phải đọc lại chương 23 ở đó Chúa Giê-su trách cứ nặng lời: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23: 23).

3. Luật dạy người xưa…Còn Thầy, Thầy bảo…:

Vào thời Chúa Giê-su, Lề Luật được tán dương hết mức, dù các ngôn sứ đã kịch liệt. Lề Luật bất khả xâm phạm được đồng hóa với sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Thật ra, những giới luật luân lý đã làm cho lề luật cao hơn các giới luật của thế giới dân ngoại chung quanh.

Chúa Giê-su sắp kiện toàn lề luật, thậm chí đưa nó trở về sự tinh tuyền nguyên thủy khi định vị những yêu sách của lề luật trước tiên ở nơi lòng dạ chính trực và phân định luật yêu thương như luật cao hơn tất cả mọi luật khác.

Đức Giê-su long trọng phát biểu với một uy quyền tối thượng: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng…Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em…”. Ngài tự đặt mình là nhà lập pháp trên ông Mô-sê. Đức Giê-su sắp đưa ra nhiều ví dụ, trong số đó ba ví dụ đầu tiên là tội sát nhân, ngoại tình, thề gian.

- Tội sát nhân:

Chúa Giê-su không chỉ kết án tội sát nhân, nhưng còn những tình cảm trong lòng dẫn đến tội sát nhân này: nóng giận. Ngài đặt một mức độ tăng dần: chỉ nóng giận, nóng giận với những lời mắng nhiếc, nóng giận với những lời chửi rủa. Những án phạt song hành theo mức độ tăng dần: trước tiên, tòa án địa phương, rồi đến, Thượng Hội Đồng, và sau cùng, lửa hỏa ngục.

Nhưng sẽ không có tội sát nhân, không có tòa án, nếu luật yêu thương ngự trị giữa con người. Vì thế, trước khi dâng lễ vật lên Thiên Chúa, trước tiên phải tự mình đích thân hòa giải với tha nhân.

“Anh hãy mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công”, nghĩa là đừng đợi đến lúc trình diện trước “quan tòa”, tức trước Thiên Chúa, rồi mới hối cải.

- Tội ngoại tình:

Luật kết án tội ngoại tình khi bị bắt quả tang. Chúa Giê-su công bố rằng ngay khi nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người người ấy rồi. Không luật pháp con người nào có thể đi xa đến như vậy; nhưng Luật mới xem những cử chỉ kém hơn những tư thế sẳn sàng trong tâm hồn. Chúng ta luôn luôn theo cùng chiều hướng của các Mối Phúc.

Chúa Giê-su nhấn mạnh tư tưởng của Ngài bởi những hình ảnh cố ý cực đoan: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc nó mà ném đi…”.

Đoạn Ngài tiếp tục mở rộng tội ngoại tình. Luật cho phép chồng rẫy vợ. Chúa Giê-su tuyên bố rằng mọi hình thức rẫy vợ đều là tội ngoại tình, vì ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình. Vì thế, người chồng phải chịu trách nhiệm về tội ngoại tình. Cũng vậy, ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình. Chúa Giê-su sẽ còn tuyên bố nghiêm khắc như vậy khi Ngài nói về sự bất khả phân ly của hôn nhân: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu , không có như thế” (Mt 19: 8). Từ đây, chính luật yêu thương phải trổi vượt trên mọi lề luật.

Câu “ngoại trừ hôn nhân bất hợp pháp” của thánh Mát-thêu đã làm tốn không biết bao giấy mực. Phải chăng Chúa Giê-su tiên liệu một trường hợp theo đó việc ly dị có thể? Đây là điều được gọi “luật trừ của thánh Mát-thêu”. Bản văn được dịch theo sát chữ đen: “trong trường hợp về điều trơ trẽn”. Vài người đã thấy ở đây một ám chỉ đến sự thất tín của người vợ; nếu vậy, Lề Luật tiên liệu không là việc rẩy vợ nhưng là hình phạt ném đá. Những người khác nghĩ rằng đây là trường hợp vô hiệu của hôn nhân: việc ăn ở với nhau mà không cưới hỏi và đặc biệt loạn luân hay đồng tính luyến ái, tức là trường hợp mà Lv 18: 6-18 đã tiên liệu và nhấn mạnh tính chất trơ trẽn của những hôn nhân này.

- Tội thề gian:

Ví dụ thứ ba Chúa Giê-su trưng dẫn là tội thề gian. Vào lúc đó việc người ta lạm dụng việc thề nguyền là một trong những vết thương của Do thái giáo. Các tiến sĩ Luật với đầu óc tinh tế đã thiết lập một bảng tính sẳn: vài biểu thức cam kết thật sự, những biểu thức khác chỉ cam kết cho có lệ. Thánh Mát-thêu cho những ví dụ về điều này ở chương 23: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc…Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc” (Mt 23: 16-22).

Việc chỉ trời, ngai Thiên Chúa, hay đất, bệ chân Ngài, mà thề được mượn ở Is 66: 1-2. Việc chỉ Giê-ru-sa-lem, thành của Đức Vua cao cả mà thề bắt nguồn từ Tv 48. Chúa Giê-su chứng minh rằng do việc tuân giữ Lề Luật hình thức, người ta buộc phải thề gian thề dối. Thêm một lần nữa, Ngài đưa vấn đề trở về chiều kích nội tâm của nó: chân thành với chính lòng mình: “Hể ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ma quỷ”.  

Tác giả: Lm Hồ Thông.

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập179
  • Hôm nay13,735
  • Tháng hiện tại644,741
  • Tổng lượt truy cập57,930,610
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây