Lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô. Giải thích Lời Chúa.

Thứ tư - 06/06/2012 06:55

-

-
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay nêu bật giá trị của Giao Ước được đóng ấn bằng máu của tế vật.
LỄ MÌNH MÁU THÁNH CHÚA KI TÔ

 
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa Ki-tô hôm nay nêu bật giá trị của Giao Ước được đóng ấn bằng máu của tế vật.
 
Xh 24: 3-8
 
Sách Xuất Hành trình bày nghi thức Giao Ước được ký kết giữa Đức Chúa và dân Do thái. Giao Ước được đóng ấn bằng máu của tế vật, máu nầy được rảy trên hai phía ký kết: sự hiện diện của Đức Chúa, được biểu tượng bởi bàn thờ, và sự hiện diện của dân Chúa chọn, được biểu tượng bởi mười hai thạch trụ, đối diện với bàn thờ.
 
Dt 9: 11-15
 
Thư gởi tín hữu Do thái cho thấy hy tế Đức Kitô cao vời khôn ví so với các hy tế của Giao Ước Cũ, vì Đức Ki tô đã hiến dâng chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới.
 
Mc 14: 12-16, 22-26
 
Đoạn Tin Mừng Mác-cô tường thuật việc Đức Giê-su thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, hy tế của Giao Ước Mới.
 
BÀI ĐỌC I (Xh 24: 3-8)
 
Sách Xuất Hành tường thuật không chỉ cuộc “xuất hành ra khỏi” đất Ai-cập, nhưng còn kinh nghiệm tôn giáo mà dân Do thái đã kinh qua trong sa mạc. Chắc chắn Kinh nghiệm nầy minh xác kinh nghiệm mà các tổ tiên xưa kia của họ đã được hưởng. Chính khởi đi từ giây phút nầy, dân Do thái đã không còn cảm thấy mình là một dân không có cội nguồn, nhưng ý thức mình là dân được chính Thiên Chúa đích thân phù trợ. Tất cả những người, sau khi kinh qua một mặc khải huyền nhiệm, sống mặc khải nầy trọn cuộc đời của mình như thế nào, thì dân Ít-ra-en đã luôn luôn quy chiếu đến những biến cố Xuất Hành để hiểu lịch sử của mình và những mối liên hệ ưu tiên của mình với Thiên Chúa như vậy.
 
Họ đã ghi lại những mối liên hệ nầy bằng thuật ngữ Giao Ước, theo cách thức mà con người ký kết ở giữa nhau: Thiên Chúa đề nghị che chỡ bảo vệ họ và đòi hỏi họ tuân giữ vài điều kiện của Ngài (những đòi hỏi của Thiên Chúa cốt yếu được chứa đựng trong Thập Giới). Phía họ phải cam kết tôn trọng những điều kiện nầy. Tất cả những truyền thống liên quan đến Giao Ước Xi-nai đều định vị Giao Ước trong bầu khí uy nghi và trình bày Giao Ước trong khung cảnh cử hành phụng vụ.
 
Đoạn văn chúng ta đọc hôm nay tường thuật việc ký kết Giao Ước cách long trọng, theo một dị bản được khai triển nhất trong số những dị bản. Đây chính là dị bản mà Đức Giê-su sẽ quy chiếu khi thiết lập hy tế Giao Ước Mới. Dị bản nầy, thuộc truyền thống Ê-lô-hít (thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 3-8. Một dị bản khác, thuộc truyền thống Gia-vít (thế kỷ thứ mười và thứ chín trước Công Nguyên), được tường thuật ở Xh 24: 1-2 và 9-11. Trong khi truyền thống Gia-vít gợi lên việc ký kết Giao Ước qua một bữa ăn thánh trên núi Xi-nai trước thánh nhan Đức Chúa cùng với ông Mô-sê, ông A-ha-ron, các con trai của ông A-ha-ron và bảy mươi kỳ mục của dân Ít-ra-en, thì truyền thống Ê-lô-hít được trích dẫn hôm nay nhấn mạnh nghi thức rẩy máu trên bàn thờ và trên dân. Diễn tiến của nghi thức nầy rất đáng chú ý: nó loan báo sơ đồ của việc cử hành Thánh Thể: trước tiên, phụng vụ Lời Chúa, đoạn, phụng vụ hy tế.
 
1. Phụng vụ Lời Chúa:
 
Từ trên núi xuống, ông Mô-sê, xướng ngôn viên của Đức Chúa, tường thuật cho toàn thể con cái Ít-ra-en quy tụ ở dưới chân núi Xi-nai biết “mọi lời của Chúa và mọi giới luật”. Dân chúng đồng thanh cam kết: “Mọi lời Chúa đã phán, chúng tôi sẽ thi hành”. Vì thế, “ông Mô-sê chép lại mọi lời của Chúa”.
 
“Mọi lời của Chúa” phải được hiểu là “Mười Lời” hay “Thập Giới”. Còn “mọi giới luật” chắc chắn quy chiếu đến các luật luân lý, xã hội và tế tự được trình bày trong các chương 20-23, được gọi dưới tên “Bộ Luật Giao Ước”, nhưng bộ luật nầy rõ ràng không được soạn thảo trong sa mạc; nó thuộc về thời kỳ đầu tiên khi dân Do thái định cư ở đất Ca-na-an, sau này được tháp nhập vào Thập Giới và đem lại cho Thập Giới những áp dụng thực tiễn.
 
Như chúng ta đã biết rồi, ông Mô-sê đã lớn lên trong cung điện Pha-ra-on và đã được đào tạo thành các thư lại. Ấy vậy, một trong những chức năng của các thư lại là ghi chép những bản hiệp ước. Một cách nào đó, ông Mô-sê làm như vậy khi xác định bằng văn bản những khoản Giao Ước mà dân Ít-ra-en sẽ phải tôn trọng. Mọi hiệp ước ở Đông Phương xưa đều được viết bằng văn bản và phải được công bố theo định kỳ.
 
2. Phụng vụ hy tế:
 
Sáng hôm sau diễn ra hy lễ đóng ấn Giao Ước giữa Thiên Chúa và dân Chúa chọn. Hai bên ký kết Giao Ước diện đối diện với nhau: sự hiện diện của Đức Chúa được biểu tượng bởi bàn thờ và sự hiện diện của Dân Ít-ra-en, vừa hữu hình vừa biểu tượng bởi mười hai thạch trụ đại diện mười hai bộ tộc Ít-ra-en.
 
Như vậy, những thạch trụ nầy sẽ là những chứng nhân muôn đời bền vững cho lời cam kết trung thành của dân Ít-ra-en. Cũng theo một cách như vậy, ở đại hội Si-khem, sau khi dân vào Đất Hứa, khi mà Giao Ước được long trọng cam kết lại, ông Giôsuê sẽ dựng một tảng đá lớn ghi nhớ muôn đời lời thề hứa trung thành của toàn thể con cái Ít-ra-en (Gs 24: 26-27).
 
“Rồi ông Mô-sê sai các thanh niên trong dân Ít-ra-en tiến dâng những lễ toàn thiêu, và ngả bò tơ làm lễ hiệp thông tế Chúa”. Các thanh niên mà ông Mô-sê chỉ định thực hiện hai loại hy lễ:
- Trước hết, “lễ toàn thiêu”. Như thuật ngữ chỉ cho thấy, tế vật được hoàn toàn hỏa thiêu dâng trọn vẹn lên Thiên Chúa. Đây là hình thức hy tế xưa nhất ở Ít-ra-en, tự nguồn gốc, mang đặc tính tạ ơn. Sau nầy, hy tế nầy trở nên thông thường; ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, lễ toàn thiêu được dâng tiến lên Đức Chúa hằng ngày.
 
- Tiếp đó, “lễ hiệp thông”. Nét đặc trưng của lễ hiệp thông chính là tế vật được làm thành một bữa ăn và mọi người cùng tham dự bữa ăn trước thánh nhan Thiên Chúa. Loại hy tế nầy nhằm tái lập những mối quan hệ hữu hảo giữa Thiên Chúa và các tín hữu của Ngài.
 
3. Nghi thức rảy máu:
 
Nghi thức được mô tả theo sau là duy nhất trong toàn bộ Cựu Ước. Những súc vật bị cắt tiết cho máu hoàn toàn chảy ra hết. Điều nầy rất phù hợp với phong tục đặc biệt của dân Ít-ra-en. Nhưng máu nầy, thay vì được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa như trong tất cả những hy tế khác, lại được tách riêng thành hai phần, sau đó, được rảy trên hai bên ký kết giao ước. Trước hết, ông Mô-sê rảy phần nữa máu trên bàn thờ đại diện Đức Chúa; phần còn lại ông rảy trên dân chúng; cuối cùng, ông lập lại lời hứa cam kết trung thành của dân: “Đây là máu giao ước Chúa đã lập với anh em, dựa trên những lời nầy”.
 
Sự thỏa thuận của hai phía được đóng ấn bằng máu: máu là biểu tượng của sự sống, chung chung được dành riêng cho chỉ mình Thiên Chúa, Đấng là nguồn sống, đem lại cho sự cam kết này một hình thức trang trọng nhất, cực thánh nhất mà người ta có thể tưởng tượng được.
 
Việc Đức Giê-su ban chính máu của mình để đóng ấn Giao Ước Mới mặc lấy một sự trang trọng còn lớn lao hơn nhiều, vì Đức Giê-su không chỉ đóng vai trò trung gian của giao ước như ông Mô-sê, nhưng Ngài còn là tế vật nữa. Không có một sự cam kết nào về phía Thiên Chúa đối với nhân loại lại triệt để tận mức đến như thế. Không một nghi thức hiệp thông nào giữa Thiên Chúa và nhân loại lớn lao hơn nghi thức của Giao Ước Mới được thực hiện trong Bí Tích Thánh Thể.
 
BÀI ĐỌC II (Dt 9: 11-15)
 
Thư gởi tín hữu Do thái là bản văn Tân Ước duy nhất giới thiệu Đức Kitô là Thượng Tế đích thật. Ngài là Thượng Tế nhưng cũng là tế vật. Vào ngày lễ Mình và Máu Chúa Kitô nầy, phụng vụ dâng hiến cho chúng ta một đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, ở đó tác giả cho thấy máu của Đức Ki tô cao vời khôn ví so với máu của tế vật dưới thời Giao Ước Cũ. Nhưng còn hơn nữa, tác giả nhấn mạnh rằng hy tế của Đức Kitô thuộc bản chất khác: một của lễ tự nguyện hiến dâng thuộc vào trật tự tinh thần và tính hiệu lực tinh thần của nó.
 
Chúng ta không biết tác giả của bức thư này là ai và ai là người nhận bức thư này (nhan đề: “Thư gởi tín hữu Do thái” được thêm vào sau này). Tuy nhiên, chắc chắn ông là một môn đệ hay một cộng tác viên của thánh Phao-lô; và người nhận phải là những Kitô hữu gốc Do thái, kỳ cựu trong đức tin, nhưng mất can đảm bởi những bách hại mà họ đang phải chịu. Dường như họ vẫn ôm ấp những hoài niệm về những nghi lễ uy nghi và trang trọng trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Đối với họ, nghi lễ Thánh Thể xem ra quá đơn giản.
 
1. Đức Ki tô, vị Thượng Tế của Giao Ước Mới:
 
Tác giả đối chiếu chức tư tế của vị Thượng Tế Cựu Ước với chức tư tế của Đức Kitô. Những so sánh của ông cốt yếu được vay mượn ở nơi nghi thức lễ Toàn Xá diễn ra một năm một lần. Chỉ một năm một lần vào ngày đại lễ này, vị Thượng Tế bước vào nơi cực thánh của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và với máu của tế vật ông tiến hành các nghi thức xá tội để cầu xin Thiên Chúa tha thứ tội lỗi của chính mình và của toàn dân.
 
So sánh với sứ vụ của vị Thượng Tế nầy, sứ vụ của Đức Ki tô thật sự là cao vời khôn sánh, vì Đức Kitô là “vị Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới tương lai”. Qua những mô tả, tác giả sắp cho thấy những phúc lộc của thế giới tương lai nầy mà Đức Kitô đã đạt được là như thế nào: đó là những phúc lộc muôn đời bền vững, đã được hứa ban và từ nay đã đạt được một lần thay cho tất cả; tức là những phúc lộc thần thiêng chứ không vật chất và bên ngoài.
 
Sự cao cả của sứ vụ của Đức Kitô được nêu bật ngay từ đầu bởi sự cao cả của cung thánh. Trái với vị Thượng Tế của Giao Ước Cũ, để gặp gỡ Thiên Chúa, Đức Ki tô không đi qua một đền thờ “do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ tạo nầy”.
 
Dường như tác giả nhắm đến Thân Thể được tôn vinh của Đức Ki tô. Cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa như vậy là vĩnh viễn, không cần lập đi lập lại mỗi năm một lần. Đức Kitô đã khai mở chỉ một lần là đủ con đường dẫn đến Chúa Cha, như tác giả viết sau nầy: “Chúng ta được thánh hóa nhờ Đức Giê-su Ki-tô đã hiến dâng thân mình làm lễ tế, chỉ một lần là đủ” (Dt 10: 10).
 
Máu mà Vị Thượng Tế của Giao Ước Cũ rảy trên bàn thờ không phải máu của chính ông nhưng máu của những tế vật thụ động. Trái lại, Đức Ki tô đã tự nguyện dâng hiến chính máu của mình trong một hiến lễ. Vị Thượng Tế của Giao Ước Cũ chỉ đạt được ơn tha thứ tội lỗi tạm thời, trong khi Đức Ki-tô đạt được sự giải thoát vĩnh viễn.
 
Những tế vật phải là vô tì vết; ấy vậy, Đức Ki-tô là tế vật vẹn toàn, tuyệt mức tinh tuyền và tuyệt đối thánh thiện; vì thế, hy tế của Ngài cũng tác sinh tính hiệu lực vô cùng tận. Việc rảy máu tế vật đem lại sự thanh sạch nghi thức, trong khi máu của Đức Ki tô đem lại sự thanh sạch nội tâm.
 
2. Tính hiệu lực của hy tế Đức Ki tô.
 
Tại sao hy tế của Đức Ki-tô lại cao vời khôn ví như vậy? Tại sao hy tế của Ngài đem lại tính hiệu lực như vậy? Vì ở nơi Đức Ki-tô có Chúa Thánh Thần. Tác giả nói đến “Thánh Thần hằng hữu” nhằm làm nổi bật sự tương phản đáng kinh ngạc: cái chết của Đức Giê-su đạt được những phúc lộc vĩnh viễn.
 
Với tư cách là hiến lễ thần linh, hiến lễ thuộc linh, hy tế của Đức Giê-su tái sinh nền tảng của đời sống nội tâm. Những ai đã được thanh tẩy như thế mới có thể dâng lên Thiên Chúa lễ tế xứng với Người.
 
Hiến lễ của Đức Kitô được gợi lên ở đây không chỉ là hiến lễ đẩm máu trên Thập Giá, nhưng còn là hiến lễ của toàn bộ cuộc sống trần thế của Ngài kể từ khi nhập thể. Tác giả đã áp dụng cho Đức Giê-su Thánh Vịnh 40: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa nầy con đây, con đến đẻ thực thi ý Ngài” (Dt 10: 5-7).
 
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái gợi lên những nghi lễ Đền Thờ hiện nay, như một nền phụng vụ vẫn còn sống động (điều nầy khiến nghĩ rằng ông viết thư nầy trước năm 70, năm đánh dấu Đền Thờ bị phá hủy). Khi ngỏ lời với người Kitô hữu gốc Do thái, ông muốn cho họ thấy rằng những nghi thức của Giao Ước Cũ chỉ là tiên trưng; chúng chỉ có giá trị tương đối. Thực tế, chính hy tế của Đức Kitô đã xóa hết “tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ”. Những ai đã nhận lời hứa ban phúc lộc đời đời, từ nay họ đã đạt được nhờ Giao Ước Mới.
 
TIN MỪNG (Mc 14: 12-16, 22-26)
 
Đoạn Tin Mừng Mác-cô nầy, được trích dẫn cho chúng ta vào ngày lễ Mình và Máu Thánh Chúa Kitô năm B, gồm có hai phần: chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16) và thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (14: 22-26).
 
1. Chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua (14: 12-16):
 
 “Ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, là ngày giết chiên mừng lễ Vượt Qua”. Hai ngày đại lễ nầy: lễ Bánh Không Men và lễ Vượt Qua, từ lâu được cử hành thành một cặp sóng đôi với nhau: mừng lễ Vượt Qua, lễ của những người chăn nuôi, họ giết một con chiên tơ, và mừng lễ Bánh Không Men, lễ của những người trồng trọt, họ tiến dâng những sản phẩm đầu mùa và bánh không men được làm bằng những hạt lúa mạch đầu tiên. Việc hiệp nhất hai lễ nầy đã trở nên dể dàng hơn vì bữa ăn Vượt Qua cũng bao gồm bánh không men.
 
Lễ Vượt Qua buộc phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; bữa ăn con chiên bị sát tế “phải được ăn ở trong thành”. Điều nầy khiến các môn đệ lo lắng. Đức Giê-su là một bậc tôn sư lưu động không nơi cố định; hơn nữa, Ngài là người thuộc miền Ga-li-lê; ngoài ra, theo sơ đồ của các sách Tin Mừng Nhất Lãm, đây là lần đầu tiên Thầy trò lên Giê-ru-sa-lem. Vì thế, họ hỏi Ngài: “Thầy muốn chúng con đi dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
 
Hoạt cảnh theo sau giống đến kỳ lạ với hoạt cảnh trước đó khi Đức Giê-su vào thành Giê-ru-sa-lem với tư cách là Đấng Mê-si-a: Đức Giê-su sai hai môn đệ đi trước, họ sẽ gặp thấy mọi việc như Ngài đã mô tả cho họ. Trong trường hợp thứ nhất: một con lừa con đang cột sẳn ở đó; còn ở đây, một người mang vò nước đến gặp hai ông. Cả hai lần, những sự việc xảy ra đúng như Chúa Giê-su đã tiên liệu: người ta để cho hai ông dắt con lừa đi; người mang vò nước dẫn hai môn đệ vào nhà và chỉ cho hai ông một phòng đã được chuẩn bị sẳn sàng cho Ngài cùng các môn đệ cử hành lễ Vượt Qua. Qua đó, thánh ký muốn nói rằng Đức Giê-su đã dự liệu tất cả, chính Ngài tổ chức lễ Vượt Qua sau cùng nầy như trước đây Ngài đã tổ chức cuộc khải hoàn tiến vào thành Giê-ru-sa-lem.
 
2. Thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể (14: 22-26):
 
Lễ Vượt Qua Do Thái giáo, mà Đức Giê-su cùng các môn đệ cử hành, biến thành lễ Vượt Qua Kitô giáo qua việc Chúa Giê-su thiết lập Bàn Tiệc Thánh Thể: vừa nối tiếp vừa đoạn tuyệt, vừa  song đối sâu xa nhưng cũng mới mẻ tận căn giữa hai lễ Vượt Qua này.
 
Lễ Vượt Qua Do Thái giáo tưởng niệm cuộc giải phóng của dân Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập, nhờ vào máu con chiên được bôi trên cửa nhà của người Do-thái. Nhờ dấu hiệu nầy, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Người nên đã tha chết cho họ.
 
Đức Giê-su loan báo cuộc giải phóng khỏi cảnh đời nô lệ tội lỗi nhờ máu Ngài "đổ ra vì muôn người". Về phương diện lịch sử, cuộc giải phóng khỏi Ai-cập đã làm dân Ít-ra-en thành dân Chúa chọn và ơn tuyển chọn này đã được hiến thánh trên núi thánh Xi-nai bởi Giao Ước Cũ.
 
Nhờ Mình và Máu Thánh của Ngài, được chia sẻ ở giữa mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Chúa chọn mới bởi Giao Ước Mới được đóng dấu bằng máu của Ngài. Ở nơi bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn, đồng thời cuộc Phục Sinh của Ngài.
 
Nếu khung cảnh lễ Vượt Qua Do Thái giáo soi sáng sự biến đổi kỳ diệu của việc cử hành xưa như thế nào, thì khung cảnh của bữa ăn Vượt Qua Ki-tô giáo mặc khải tất cả khía cạnh thống thiết của nó như vậy: Đức Giê-su sắp từ biệt các môn đệ của mình, những người mà Ngài yêu thương, những người mà Ngài trao phó sứ mạng truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; vì thế, Ngài gặp thấy phương tiện để ở lại với họ, bằng cách thiết lập quà tặng kỳ diệu này, quà tặng của chính bản thân mình, nhờ đó các Tông Đồ cũng như những người kế nghiệp các ngài có thể lưu truyền mãi mãi cách thế hiện diện của Ngài. Chỉ duy một mình Thiên Chúa mới có thể vừa ra đi vừa ở lại.
 
Thánh Mác-cô cũng nhấn mạnh “giá trị cánh chung” của “bàn tiệc Thánh Thể”. Bàn tiệc này tham dự trước bàn tiệc Thiên Quốc: “Thầy bảo thật anh em: chẳng bao giờ Thầy còn uống sản phẩm của cây nho nữa, cho đến ngày Thầy uống thứ rượu mới trong Nước Thiên Chúa”.
 
Trong nhiều sấm ngôn, cuộc sống tương lai thường được biểu thị như bàn tiệc thời Thiên Sai, còn rượu nho như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời Mê-si-a”, niềm vui muôn đời của thế giới sắp đến. Đây đã là một trong những ý nghĩa của dấu lạ tiệc cưới Ca-na, tự nó là khúc dạo đầu của dấu lạ bàn tiệc Thánh Thể: nước biến thành rượu ở tiệc cưới Ca-na tương xứng với rượu biến thành máu của Ngài ở bàn tiệc Vượt Qua.
 
Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát Thánh vịnh xong…”. Đây chính là thánh thi tạ ơn được gọi “Hallel”, được hát để kết thúc bữa ăn Vượt Qua. Bài thánh thi tạ ơn này được trích từ các thánh vịnh 113-118; như vậy, bữa Tiệc Ly của Đức Giê-su theo Tin Mừng Gioan đích thực là bữa ăn Vượt Qua của Đức Giê-su theo các Tin Mừng Nhất Lãm.

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập768
  • Hôm nay115,090
  • Tháng hiện tại1,027,354
  • Tổng lượt truy cập57,128,991
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây