Lễ Chúa Giáng Sinh. Giải thích Lời Chúa

Thứ ba - 23/12/2014 05:01

-

-
Chú giải các bài đọc trong các thánh lễ: Lễ Giáng Sinh (Lễ đêm), Lễ Giáng Sinh (Lễ ngày), Lễ Thánh Gia Thất.
LỄ GIÁNG SINH (LỄ ĐÊM)
 
Phụng Vụ Lời Chúa Lễ Đêm Giáng Sinh tập trung mọi ánh sáng vào biến cố Giáng Sinh của Hài Nhi Bê-lem. Chính Hài Nhi này đã được ngôn sứ I-sai-a trước đó đến sáu thế kỷ loan báo là Đấng Cứu Độ của chúng ta và cũng được thánh Phao-lô sau này tuyên xưng là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta.
 
      Is 9: 2-4, 6-7.
      
Bài đọc I là bài thơ chan chứa niềm hy vọng của ngôn sứ I-sai-a. Sáu trăm năm trước đó, vị ngôn sứ đã hân hoan loan báo cuộc giáng sinh của Đấng Cứu Độ: “Vì Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã ban tặng một người con để cứu ta”.
 
      Tt 2: 11-14.
      
Trong đoạn trích thư gởi cho Ti-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở cho người môn đệ của mình đồng thời cũng là cộng tác viên của mình rằng ân sủng của Thiên Chúa bắt đầu tỏ rạng ở nơi biến cố Giáng Sinh của “Đức Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Cứu Chúa của chúng ta”, bởi vì lễ Giáng Sinh đã gieo mầm ánh vinh quang rực rỡ của  lễ Phục Sinh.
 
      Lc 2: 1-14.
      
Khi thuật lại biến cố Giáng Sinh của Đức Giê-su, thánh Lu-ca dẫn chúng ta vào ý nghĩa sâu xa của mầu nhiệm Thiên Chúa làm người trong cảnh cơ hàn: “một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Vinh quang và bình an của Thiên Chúa tràn ngập cõi thế. Sứ điệp hân hoan mà các thiên sứ loan báo đã là khúc dạo đầu cho Sứ Điệp Tin Mừng cứu độ được gởi đến cho nhân loại: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế cho loài người Chúa thương”.
 
      BÀI ĐỌC I (Is 9: 2-4, 6-7)
      
Ngôn sứ I-sai-a sáng tác bài thơ nầy không bao lâu sau lời sấm về Đấng Em-ma-nu-en. Bài thơ này gợi lên những biến cố đã xảy ra vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Trong bài thơ này, vị ngôn sứ hoan hĩ loan báo “Chúa đã cho một trẻ thơ chào đời, đã ban tặng một người con để cứu chúng ta”, chắc hẳn trẻ thơ nầy là Đấng “Em-ma-nu-en” (“Thiên Chúa ở cùng chúng ta”) trong lời sấm trước đây của ông (Is 7: 14).
 
Hoàn cảnh lịch sử vào lúc đó không kém phần nghiêm trọng, nhưng không liên quan đến kinh thành Giê-ru-sa-lem. Phần đầu của bài thơ (không được trích dẫn ở đây) cho thấy đó là miền Ga-li-lê. Vua Át-sua là Tích-lát Pi-le-xe xâm chiếm vương quốc miền Bắc và đã bắt thành phần ưu tú của dân Ga-li-lê lưu đày đến Át-sua. Quân đội Át-sua có tập quán tàn bạo là móc mắt tù binh. Có lẽ ngôn sứ I-sai-a ám chỉ đến ở đây: “Đoàn người đang lần bước giữa tối tăm…” Dù thế nào, bóng tối biểu tượng nỗi khốn cùng.
 
      1. Miền Ga-li-lê sẽ thấy một ánh sáng huy hoàng (9: 2-4).
      
Nhưng vị ngôn sứ loan báo một niềm vui vỡ bờ: Đức Chúa giải thoát dân Ngài. Ông phác họa một bức tranh đầy sắc màu tươi vui: niềm tủi nhục biến thành vinh quang, tối tăm thành ánh sáng, cảnh đời nô lệ thành cuộc sống tự do. Bài thơ sánh ví những giờ phút hân hoan nầy với niềm hoan hĩ của nông dân trong mùa gặt và của chiến binh khi chia nhau chiến lợi phẩm. Cuối cùng và nhất là không còn dấu vết chiến tranh nữa: “Vì mọi giày lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa” (Is 9: 4). Thiên hạ sẽ không cần những quân nhu chiến cụ nữa, vì chính Thiên Chúa đích thân can thiệp để đảm bảo một nền hoà bình viên mãn.
      
Để viện dẫn lý do cho lời sấm của mình, ngôn sứ I-sai-a nêu lên một tiền lệ lịch sử. Trước đây Đức Chúa đã giải thoát dân Ga-li-lê rồi trong một giai đoạn lịch sử đau thương của họ, khi họ gặp phải quân Ma-đi-an bạo tàn thống trị, Ngài đã giúp ông Ghít-ôn lập chiến công lẫy lừng đánh bại những kẻ áp bức.
 
      2. Một trẻ thơ chào đời cho chúng ta (9: 6-7).
      
Nguyên do của niềm hân hoan và những viễn tượng tràn đầy hy vọng nầy, chính “vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta, một người con đã ban tặng cho ta”. Phần tiếp theo của bài thơ cho thấy rằng xem ra đây không là một hoàng nhi chào đời nhưng một tân vương lên ngôi. Quả thật, qua những từ ngữ mà vị ngôn sử sử dụng, chúng ta không thể nào không đọc thấy những ám chỉ đến nghi lễ phong vương. Rõ ràng việc phong vương được xem như một cuộc sinh ra lần thứ hai: ngày vua trở thành Thiên Tử: “Tân vương lên tiếng: Tôi xin đọc sắc phong của Chúa, Người phán bảo tôi rằng: Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con (Tv 2: 7).
      
“Người con đó gánh vác quyền bính trên vai”. Người ta nghĩ đến nghi thức choàng áo long bào trên vai của vị tân vương hay trao vào tay tân vương một vương trượng (cả hai biểu tượng quyền bính nầy đều được chứng thực trong nghi lễ phong vương). Xa hơn, vị ngôn sứ viết: “Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó” (Is 22: 21-22).
 
“Danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, là Thần Linh dũng mãnh, là Người Cha muôn thuở, là Hoàng Tử Hòa Bình”. Chắc chắn đây là những vương hiệu được ban cho vị tân vương vào ngày tấn phong. Người ta gặp thấy nguyên mẫu tương tự ở Ai-cập. Quả thật, những danh hiệu tôn kính nầy là những phẩm tính thần linh, nhằm nhắc nhở rằng “tân vương là thiên tử”. “Cố Vấn kỳ diệu”, “Thần Linh dũng mãnh”, đó là những ân huệ được hứa ban cho một mầm non từ gốc tổ Gie-sê: “thần khí khôn ngoan và minh mẫn”, “thần khí mưu lược và dũng mãnh” (Is 11: 1-10). Danh hiệu “Người cha muôn thuở” thường được ban cho vua, vì vua được xem như người cha của dân tộc, để cầu chúc vương triều của vua muôn năm bền vững. Ngài được gọi là “Hoàng Tử Hoà Bình”, bởi vì một trong dấu hiệu thời Mê-si-a chính là nền hoà bình viên mãn sẽ ngự trị. Các ngôn sứ tranh nhau tiên báo nền hoà bình nầy. Phụng vụ lễ Giáng Sinh áp dụng tất cả những danh hiệu tôn kính nầy cho Hài Nhi Bê-lem, vì nhận ra ở nơi trẻ thơ nầy là “Đấng Em-ma-nu-en” đích thật.
 
      3. Lời sấm bí ẩn
      
Vị ngôn sứ loan báo cuộc giải thoát dân Ga-li-lê, niềm hân hoan và ánh sáng bừng lên trên khắp xứ sở của họ (vương quốc miền Bắc). Thật lạ lùng, ông nối kết biến cố nầy với cuộc chào đời - hay cuộc phong vương – của một hậu duệ nhà Đa-vít ở vương quốc miền Nam, ở kinh đô Giê-ru-sa-lem. Phải chăng ông hy vọng hai vương quốc Bắc và Nam sẽ được thống nhất dưới triều đại của vua Mê-si-a?
      
Điều bí ẩn nầy sẽ gặp thấy lời giải đáp bảy thế kỷ sau đó. Miền Ga-li-lê rực lên ánh sáng Tin Mừng. Đức Giê-su tự thân là người Ga-li-lê, nhưng với tư cách là hậu duệ của vua Đa-vít, Ngài sinh ra ở Bê-lem, thuộc vương quốc miền Nam xưa. Bài ca hợp xướng của đoàn thiên sứ loan tin vui cho toàn dân (Lc 2: 10) hòa chung nhịp điệu với khúc hoan ca của vị ngôn sứ ca ngợi một hoàng nhi ra đời.
 
      BÀI ĐỌC II (Tt 2: 11-14)
      
Ông Ti-tô đã là một người môn đệ và cũng là bạn đồng hành kỳ cựu nhất của thánh Phao-lô. Ông đã trở lại đạo; song thân ông đều là người Hy lạp. Thánh Phao-lô đã trao gởi cho ông coi sóc các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Ở đây, ông gặp phải những khó khăn nghiêm trọng. Ông phải đương đầu với những chống đối đặc biệt đến từ môi trường Do thái chịu ảnh hưởng Hy lạp mà chính thánh Phao-lô đã từng chạm trán ở những nơi khác. Vì thế, những lời khuyên của thánh nhân thật là quý báo đối với ông Ti-tô.
      
Thật khó xác định niên biểu của bức thư nầy. Chắc chắn đây là một trong số những bức thư cuối đời của thánh nhân. Nhưng chúng ta không biết chắc là thánh nhân đã chịu hành hình vào năm 63 hay năm 67. Nếu thánh nhân được diễm phúc tử đạo vào năm 67, thì thư gởi cho ông Ti-tô được viết vào năm 65. Lúc đó, thánh nhân có thể đang ở Ma-xê-đoan.
 
      1. Thần Tính của Đức Giê-su.
      
Trong vài hàng, thánh Phao-lô nhắc nhở cho ông Ti-tô biết rằng giáo huấn cốt lõi mà ông phải kiên vững truyền đạt, đó là ơn cứu độ Thiên Chúa đã gởi đến cho con người là nhưng không và phổ quát. Các Ki-tô hữu đòi buộc phải từ bỏ tội lỗi và sống thánh thiện trong khi chờ đợi ngày Quang Lâm của “Đức Giê-su Ki tô là Thiên Chúa vĩ đại, và là Đấng Cứu Độ của chúng ta”.
      
Việc dùng danh xưng Thiên Chúa cho Đức Giê-su Ki-tô không là cách thức quen thuộc của thánh Phao-lô. Thánh nhân thường dành riêng danh xưng “Thiên Chúa” cho Chúa Cha. Việc thánh nhân dùng danh xưng này cho Chúa Giê-su chúng ta chỉ gặp thấy một ví dụ duy nhất trước đây trong thư gởi tín hữu Rô-ma: “Người (Đức Ki-tô) là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi sự. Chúc tụng Người đến muôn thuở muôn đời. Amen” (Rm 9: 5b). Vfi thế, chúng ta có thể nghĩ rằng dường như những người Do thái bác bỏ Thần Tính của Đức Giê-su Ki-tô, một vấn đề mà ông Ti-tô đang phải đương đầu.
 
      2. Lợi ích của bức thư.
      
Bức thư nầy không chỉ có lợi ích về phương diện tín lý, nhưng còn về phương diện mục vụ. Quả thật, cùng với hai bức thư gởi cho Ti-mô-thê, bức thư gởi cho Ti-tô được gọi “thư mục vụ”, vì trong đó thánh Phao-lô đã đưa ra những huấn lệnh liên quan đến việc tổ chức các cộng đoàn Ki-tô hữu. Quả thật, tất cả các vị Tông Đồ của Đức Giê-su đã lần lượt qua đời, vì thế đây là thời kỳ của những người được các Tông đồ uỷ quyền (ông Ti-tô là một trong số họ).
      
Bức thư mục vụ này giúp chúng ta hiểu được giai đoạn chuyển tiếp giữa việc tổ chức đầu tiên, dưới chỉ thị của các “Kỳ Mục”, và việc hình thành cơ cấu phẩm trật của Giáo Hội.
 
      TIN MỪNG (Lc 2: 1-14)
      
Trong bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký quan tâm nhiều nhất đến những tham chiếu lịch sử. Ông là vị thánh ký duy nhất giải thích cho chúng ta biết tại sao Đức Giê-su sinh ra ở Bê-lem chứ không ở Na-da-rét, cũng như việc kiểm tra dân số theo chiếu chỉ của hoàng đế Xê-da Âu-gu-tô được thực hiện trên khắp xứ Palestine theo tập tục Do thái, nghĩa là phải đăng ký ở nơi nguyên quán, chứ không theo cách thức Rô-ma, ở nơi cư ngụ.
      
Thánh Giu-se trở về Bê-lem vì ông thuộc gia tộc vua Đa-vít. Quả thật, hơn mười thế kỷ trước đó, chính Bê-lem là quê quán của ông Gie-sê, cha của vua Đa-vít. Đối với dân Do thái, những ghi nhớ về dòng dõi của mình không bao giờ phai nhạt trong tâm trí, nơi chôn nhau cắt rốn vẫn bảo tồn trong kỳ ức của mình. Đó là lý do tại sao việc kiểm tra dân số dưới thời hoàng đế Âu-gu-tô được thực hiện theo tiêu chuẩn truyền thống. Vì thế, thánh Giu-se phải lên đường trở về Bê-lem, nguyên quán của mình.
      
Tại sao Đức Ma-ri-a cùng đi theo thánh Giu-se? Phải chăng cô cũng thuộc dòng tộc Đa-vít? Có thể, vì người Do thái thường muốn dựng vợ gả chồng ở trong vòng gia tộc của mình, nhưng không chắc lắm. Thật ra, Đức Ma-ri-a là em họ của bà Ê-li-sa-bét thuộc gia tộc Lê-vi. Người ta gặp thấy cuộc kiểm tra dân số tương tự đã xảy ra ở Ai-cập vào năm 104 sau Công Nguyên và những chứng liệu chứng thực rằng vợ phải trình diện bên cạnh chồng mình.
 
      1. Hoàn cảnh Giáng Sinh của Đức Giê-su.
      
“Khi hai ông bà đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong quán trọ”.
      
Đừng hiểu rằng Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se bị xua đuổi không có nơi tá túc qua đêm, điều nầy hoàn toàn trái với phong tục tập quán vốn hiếu khách của người Do thái. Nhưng thật bất tiện đối với một người phụ nữ bụng mang dạ chữa sắp đến ngày mãn nguyệt khai hoa ở nơi đông đúc như vậy. Chỉ nghĩ đến những lữ quán Đông Phương, ở đó người, vật và hàng hoá chen nhau ồn ào náo nhiệt trong sân. Có thể có các phòng trọ nhưng vào những dịp như thế này chắc chắn tiền thuê rất đắt, chỉ dành cho những người giàu có.
 
      2. Hai dấu chỉ cùng một lúc.
      
Đức Giê-su chào đời ở “Bê-lem”, nghĩa là “nhà của bánh”. Đó không phải là tên tiền định sao? Thiên Chúa bằng lòng đón nhận thân phận làm người của chúng ta. Ngài còn đi xa hơn trong sự tự hạ: không chỉ trút bỏ quyền lực và vinh quang của mình, nhưng còn vì tình yêu, Ngài làm cho mình trở thành một tấm bánh. Ngoài ra, chiếc nôi đầu đời của Ấu Chúa là một “máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh sự kiện nầy đến ba lần (hai lần trong đoạn văn trích nầy, và một lần khác nữa xa hơn). Đây cũng là dấu hiệu mà các sứ thần cho các mục đồng để nhận ra Ngài: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tả, nằm trong máng cỏ”. Điểm nhấn nầy chắc hẳn có chủ ý. Với điểm nhấn nầy, thánh ký có thể đã hiểu lời tiên báo về số phận của Hài Nhi nầy, Đấng sẽ dâng hiến thân mình khi nói: “Anh em hãy cầm lấy mà ăn, vì nầy là Mình Thầy”.
 
      3. Con trai đầu lòng.
      
“Đức Ma-ri-a sinh con trai đầu lòng”. Diễn ngữ này là từ ngữ pháp lý; từ ngữ này muốn nói rằng ngoài Chúa Giê-su, Đức Ma-ri-a không có người con nào khác. Cách nói “Anh em của Đức Giê-su” mà các thánh ký đề cập đến trong sách Tin Mừng của mình là anh em họ của Đức Giê-su. Trong Cựu Ước, chữ “anh em” có một phạm vi ngữ nghĩa rất rộng. Ngôn ngữ Do thái không có đặc ngữ để chỉ “anh em họ”. Vả lại, “anh em của Đức Giê-su” có những bà mẹ khác nhau (x. Mt 27: 56; Mc 15: 40-41; Ga 19: 45). Giáo Hội luôn luôn công bố Đức Ma-ri-a trọn đời đồng trinh.
      
“Con trai đầu lòng” phải chịu nhiều quy định của Lề Luật: phải được thánh hiến, tức dâng hiến cho Thiên Chúa và được “chuộc lại” nhờ hy lễ như trường hợp của Đức Giê-su với “một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non” (của lễ của con nhà nghèo khó). Diễn ngữ “con đầu lòng” được lấy lại trong những viễn cảnh Ki-tô giáo: Đức Giê-su là Trưởng Tử của một cuộc sáng tạo mới, Trưởng Tử của các vong nhân. Mầu Nhiệm Nhập Thể của Ngài thật sự mang ơn cứu độ đến cho nhân loại, như lời của thánh Phao-lô: “người anh cả của một đàn em đông đúc”.
 
      4. “Đức Ma-ri-a lấy tả bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ”.
      
Đấng Tạo Hóa hóa thân một Hài Nhi yếu hèn và bé bỏng hoàn toàn phụ thuộc vào tấm lòng ân cần săn sóc của cha mẹ trần thế. Ngôi Lời Thiên Chúa, Lời Quyền Năng, tự mình trở nên “một trẻ sơ sinh không nói được”. Thiên Chúa Hằng Sống giáng trần và chấp nhận tiến trình lớn lên như bao nhiêu con người khác.
      
Ba mươi năm sau đó, Đấng ấy sẽ cất cao giáo huấn của mình: “Ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18: 4); “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì nước trời là của những ai giống như chúng” (Mt 19: 13-15). Trong Tin Mừng, có một con đường thánh thiện bằng cách tự mình trở nên trẻ thơ, và con đường nầy bắt nguồn từ Hài Nhi Bê-lem.
 
      5. Thiên Chúa sinh ra trong cảnh cơ hàn.
      
Cũng chính Hài Nhi Máng Cỏ nầy một ngày kia sẽ nói về cảnh đời của mình: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có nơi gối đầu qua đêm”. Thế nên, không ai gợi lên nhiều mâu thuẩn nơi chính bản thân mình cho bằng Đức Giê-su nầy, Ngài sinh ra như một kẻ đầu đường xó chợ khốn cùng nhất trong số những kẻ vô gia cư và chết như một phạm nhân nguy hiểm nhất trong số các tên tội phạm.
      
René Habachi sử dụng khái niệm triết học để diễn tả mầu nhiệm mâu thuẩn nầy: Thiên Chúa là “Cái Là” (l’Ētre: Hữu Thể), “Cái Là tuyệt đối”, vì thế Ngài không cần “Cái Có” (l’Avoir), vì ở nơi Ngài “Cái Có” bị tiêu tan bởi “Cái Là”. Cũng một cách nào đó như vậy “cái nghèo vô tận của Thiên Chúa, cái không có tận cùng của Thiên Chúa, là dấu chỉ Thần Tính của Ngài”.
      
Jacques Loew trong tác phẩm “Như thấy Đấng Vô Hình” đã cho chúng ta một bài suy niệm sâu sắc về Mầu Nhiệm Giáng Sinh theo cùng một cách như vậy: “Chúa Giê-su đã sinh ra bé nhỏ và nghèo hèn chắc là để biểu lộ tình thương của Ngài đối với những người bé nhỏ và nghèo hèn trong thế giới cho tới tận thế; nhưng thật ra cuộc đản sinh khiêm tốn của Ngài còn có ý nghĩa sâu xa hơn nhiều. Chẳng có gì xứng đáng cho Chúa cả; chẳng có gì cao trọng đủ để mà tiếp rước Ngài, dù có trang hoàng mỹ lệ, dù có cung điện lộng lẫy, dù loài người có khôn ngoan. Vì thế Thiên Chúa chọn một nơi không gì hết là vì ở đó không có sự cạnh tranh lố bịch, không có vẻ giàu sang giả tạo. Chúa chỉ ngự đến nơi nào mà ở đó Ngài là tất cả: ở Máng cỏ, trong cảnh nghèo nàn thực sự, nơi mà Đức Ma-ri-a, một tâm hồn khó nghèo” (bản dịch của Lưu Tấn, trang 16-17).
 
      6. Các mục đồng.
      
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên thức đêm ngoài trời, canh giữ đàn vật”. Đó là lý do tại sao chuồng chiên thì trống: đàn vật ở ngoài đồng và những người chăn chiên ngủ ngoài trời. Ở xứ Pa-lê-tin, giữa lễ Vượt Qua và mùa thu, thời tiết rất đẹp. Đức Giê-su không sinh ra vào ngày 25 tháng 12. Việc chọn thời biểu nầy để tưởng niệm sinh nhật của Ngài là nhằm đề cao ý nghĩa biểu tượng: đông chí đã qua; ánh sáng chiến thắng bóng tối. Ngày lễ Giáng Sinh tự gốc tích là ngày lương dân mừng thần mặt trời.
      
Những người đầu tiên được loan tin mừng Giáng Sinh là những mục đồng, nghĩa là những người tầm thường, thường vô học và bị bị khinh bĩ nhất, được liệt vào hàng tội lỗi và những kẻ thu thuế. Vì thế, Đức Giê-su tự đặt mình vào số những người nghèo hèn, khiêm hạ và bé nhỏ. Những mục đồng đến vây quanh Hài Nhi, thờ lạy Ngài. Đức Giê-su đến “để chăn dắt dân Ngài”: Ngài là Mục Tử đích thật, Mục Tử nhân lành (Ga 10: 11-15). Sau cùng việc Đức Giê-su sinh hạ ở giữa những mục đồng xứ Bê-lem là “dấu chỉ Đa-vít” tuyệt vời. Ngài sinh ra ở những nơi mà cậu bé Đa-vít đã canh giữ đàn chiên. Ngài là Tân Đa-vít.
 
      7. Sứ điệp của các thiên sứ.
      
Bản hợp xướng của các thiên sứ là một dấu chỉ khác: sự hiện diện của Thiên Chúa. Triều đình thiên quốc đã dời chỗ từ thượng giới xuống hạ giới bởi vì Hài Nhi Máng Cỏ này không ai khác hơn là Thiên Chúa tự thân.
      
Các thiên sứ loan báo: “Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân”. Thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng nhạy bén nhất trước bầu khí vui tươi mà biến cố Nhập Thể đem đến. Niềm vui nầy là niềm vui Thiên Sai mà các ngôn sứ đã loan báo biết bao lần (ví dụ như bài đọc I), đây thật sự khúc dạo đầu niềm vui viên mãn của cõi đời đời.
      
Sứ điệp mà các thiên sứ gởi đến cho họ thật vĩ đại biết bao với những ngôn từ làm nức lòng người: “Hôm nay, Đấng Cứu Độ anh em đã ra đời trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa”. Sứ điệp này thật tương phản biết bao với lời kết rất mực khiêm tốn nghèo hèn: “Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người: Anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã nằm trong máng cỏ”. Sự tương phản nầy tiên trưng cho một tương phản khác: bên máng cỏ nầy được bao phủ bởi ánh sáng và lời hoan ca, ẩn hiện một bóng tối, bóng tối của đồi Can-vê. Vì Ngôi Lời hóa thành một phàm nhân, không phải là để phàm nhân nầy một ngày kia bị tra tấn, bị nhục mạ, bị đóng đinh vào thập giá đó sao? Thư gởi tín hữu Do thái cho chúng ta một bài suy niệm rất sâu sắc về Mầu Nhiệm Nhập Thể: “Chúa đã không ưa hy lễ và hiến tế nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ toàn thiêu và lễ xóa tội. Bấy giờ con mới thưa: ‘Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như Sách Thánh đã chép về con’” (Dt 10: 5-7).
      
Bài ca tôn vinh của các thiên sứ: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời. Bình an dưới thế cho loài người Chúa yêu”, có thể được mượn ở một bài thánh thi phụng vụ Do thái. Lời hoan hô tôn vinh của đám đông vào lúc Đức Giê-su khải hoàn vào thành thánh Giê-ru-sa-lem được trích dẫn theo cùng những ngôn từ như vậy: “Bình an trên cõi trời cao, vinh quang trên các tầng trời” (Lc 19: 38).
 
      8. Một sự trao đổi kỳ diệu.
      
Mầu Nhiệm Nhập Thể vừa mặc khải Thiên Chúa vừa mặc khải con người. Trong một cuộc yết kiến vào thứ tư ngày 28 tháng 12 năm 1977, Đức Thánh Cha Phao-lô VI nói: “Trong nội dung thần linh của nó, mặc khải của lễ Giáng Sinh thì vô giới hạn”. Trong nội dung con người của nó, mặc khải làm chứng về sự cao cả của con người. Con người đã được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa; nầy đây chính Thiên Chúa mặc lấy dung mạo con người. Kinh Tiền Tụng Giáng Sinh III nói về cuộc trao đổi kỳ diệu: “Vì khi Ngôi Lời của Chúa mặc lấy thân phận mỏng giòn của chúng con, thì loài người phải chết, không những được hưởng vinh dự vĩnh cửu mà nhờ việc tham dự kỳ diệu ấy, Chúa còn cho chúng con được sống muôn đời”
 
GIÁNG SINH - LỄ RẠNG ĐÔNG
 
Phụng Vụ Lễ Rạng Đông Giáng Sinh tiếp tục xoay quanh mầu nhiệm Nhập Thể của Con Thiên Chúa: sự cao cả được ẩn dấu trong sự đơn giản đến mức tối đa. Dân Thiên Chúa chiêm ngắm bà Ma-ri-a, thánh Giu-se, cùng Hài Nhi đặt nằm trong Máng Cỏ.
 
Is 62: 11-12
 
Ngôn sứ I-sai-a đệ tam loan báo rằng những người bị tản mác khắp nơi được Thiên Chúa quy tụ lại để thành “dân thánh của Ngài”, “dân được Chúa cứu chuộc”.
 
Tt 3: 4-7
 
Thánh Phao-lô khuyên ông Ti-tô, vị lãnh đạo cộng đoàn Crète, đừng tìm cách sửa đổi đạo lý tinh tuyền của Ki tô giáo cho phù hợp với ý muốn và sở thích của con người, dù dưới bất kỳ áp lực nào.
 
Lc 2: 15-20
 
Đoạn Tin Mừng này là phần cuối của chuyện tích lễ đêm Giáng Sinh. Ở nơi dáng dấp của các mục đồng, thành ký phác họa chân dung của những người Ki tô hữu: “Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt  thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”.
 
BÀI ĐỌC I (Is 62: 11-12)
 
Sứ điệp này đã được công bố cho Giê-ru-sa-lem vào những năm khó khăn sau khi những người lưu đày trở về từ Ba-by-lon.
 
1. Hiện trạng tang thương của Giê-ru-sa-lem:
 
Những người hồi hương đã gặp lại Giê-ru-sa-lem nghèo khổ, dân cư thơ thớt, chịu cống nạp cho những người ngoại quốc; Đền Thờ hoang tàn đổ nát. Họ bắt tay tái thiết Đền Thờ, nhưng công việc phải dừng lại vì thiếu tài chánh. Vì thế họ hoàn toàn vỡ mộng. Ngôn sứ khơi lại ngọn lửa hy vọng của họ. Đức Chúa không quên dân Ngài.
 
Vị ngôn sứ này là tác giả vô danh mà người ta đặt biệt danh là ngôn sứ I-sai-a đệ tam (Is 56-66), vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày. Ông là môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55), vị ngôn sứ của thời lưu đày, mà ông lấy lại những cách diễn tả của thầy mình.
 
2. Sứ điệp chứa chan hy vọng:
 
Vị ngôn sứ này xác tín rằng thời kỳ cứu độ Giê-ru-sa-lem sắp đến gần, và Giê-ru-sa-lem rồi sẽ lại trở nên đông đúc, vì những con cái của nó bị tản mác khắp nơi sẽ trở về. Chính viễn cảnh về một cuộc quy tụ vĩ đại này hình thành nên chủ đề của đoạn trích hôm nay.
 
Theo gương thầy và vị tiền nhiệm của mình, ngôn sứ tưởng tượng Đức Chúa dẫn đầu dân Ngài và mang ơn cứu độ đến cho họ (x. Is 40: 10), nhưng đoàn người mà Đức Chúa dẫn dắt không còn là đoàn tù nhân được giải phóng, đây là đám rước bao la của những người Giu-đa bị tản mắc khắp thiên hạ, họ lên đường tiến về Thành Thánh. Đó là thành quả rực rỡ của việc Chúa can thiệp mà muôn dân muôn nước đều nhận biết.
 
Như vậy, Ít-ra-en lại có thể được gọi là “dân thánh”, “dân được Đức Chúa cứu chuộc”. Cuối cùng, Giê-ru-sa-lem có thể được chào đón bằng những tên biểu tượng: Nó sẽ được gọi là “Cô gái đắt chồng”; sau khi đã được Chúa của mình sủng ái, nó sẽ không còn là một người vợ bị bỏ rơi.
 
BÀI ĐỌC II (Tt 3: 4-7)
 
Phụng vụ đề nghị cho chúng ta một đoạn trích mới từ thư của thánh Phao-lô gởi ông Ti-tô.
 
1. Hoàn cảnh:
 
Trong đoạn trích này, chúng ta gặp lại những chủ đề lớn, cô động về lời rao giảng của thánh Phao-lô. Ông Ti-tô, người môn đệ mà thánh Phao-lô đã giao phó Giáo Đoàn Crète, đã gặp phải những khó khăn. Thật ra, những cuộc tranh luận về đức tin cốt yếu đến từ những Ki tô hữu gốc Do thái – chắc chắn rất đông ở trong các cộng đoàn Ki tô giáo Crète – một trong những sai lầm của họ là vẫn gắn bó với những công nghiệp của Lề Luật như nguồn mạch ơn cứu độ. Vì thế thánh nhân khuyên ông đừng tìm cách sửa đổi đạo lý tinh tuyền của Ki tô giáo cho phù hợp với ý muốn và sở thích của con người, dù dưới bất kỳ áp lực nào.
 
2. Ơn cứu độ của Thiên Chúa:
 
Thật là ý nghĩa khi thánh nhân nhắc lại đến hai lần cùng một chủ đề với thư gởi tín hữu Rô-ma: sự cứu độ không có bất kỳ mối liên hệ nào với những công nghiệp do tự sức chúng ta, nhưng hoàn toàn là ơn huệ nhưng không do lòng nhân hậu và yêu thương của Ngài: “Thiên Chúa đã tuôn đổ đầy tràn ơn Thánh Thần xuống trên chúng ta, nhờ Đức Giê-su Ki tô, Đấng cứu độ chúng ta”.
 
3. Những chủ đề quan trọng khác:
 
Đạo lý phép Rửa cũng được mạnh mẽ tái khẳng định như ơn tái sinh, cũng như quyền năng của Chúa Thánh Thần hiện ở trong chúng ta, đảm bảo cho chúng ta quyền thừa hưởng sự sống đời đời.

Ông Ti tô xem ra một con người nhút nhát, không quyết đoán trước những áp lực từ phía những người chống đối. Thánh Phao-lô mời gọi ông hãy kiên vững và đồng thời khích lệ ông hãy gìn giữ sự tinh tuyền của đạo lý Ki tô giáo.
 
TIN MỪNG (Lc 2: 15-20)
 
Đoạn Tin Mừng hôm nay là phần cuối của chuyện tích Giáng Sinh đã được công bố vào Lễ Đêm Giáng Sinh.
 
Thánh Lu-ca mô tả dáng dấp của các mục đồng: sau khi được các thiên sứ báo tin, “họ liền hối hả ra đi”, như Đức Ma-ri-a, sau khi được sứ thần loan báo, vội vả ra đi đến nhà người chị họ của mình là bà Ê-li-sa-bét. Thiên Chúa đã cho một dấu chỉ; phải đi kiểm chứng tức khắc và cố tìm hiểu ý nghĩa dấu chỉ của Ngài.
 
Dáng dấp của các mục đồng nói lên biết bao bài học. Vì thế, thánh ký đã tô điểm câu chuyện này với nhiều chi tiết long trọng.
 
1. Mục đồng:
 
Đấng Mê-si-a, được các ngôn sứ loan báo biết bao lần, được dân Ít-ra-en chờ đợi từ lâu lắm rồi, đã đi vào trong lịch sử con người một cách bất ngờ nhất và kín đáo nhất. Để nhận ra Ngài trong mầu nhiệm tự hạ này, phải có một tâm hồn nghèo khó, lột bỏ khỏi mọi thiên kiến. Thánh Lu-ca là thánh ký về đức nghèo khó.
 
Những mục đồng là những kẻ bị liệt ra ngoài lề xã hội, những kẻ mà các tiến sĩ Luật nghi ngờ về đời sống đạo hạnh của họ, vì nghề nghiệp của họ không cho phép họ tuân giữ ngày sa-bát và tham dự thường xuyên kinh nguyện trong các hội đường. Chính ở nơi những tín đồ không ngoan đạo này mà lời loan báo đầu tiên về Triều Đại Mê-si-a được gởi đến. Chúng ta nhận ra cách thức của Thiên Chúa. Đức Giê-su sẽ hớn hở vui mừng và ngợi khen Cha Ngài “vì Cha đã giấu kín không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn” (Lc 10: 21).
 
Chính ở nơi các mục đồng này, thánh ký phác họa dáng dấp của các Ki tô hữu: họ “ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ”.
 
2. Hài Nhi Giê-su:
 
Khi đến nơi, “họ gặp bà Ma-ri-a, ông Giu-se, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ”. Thánh Lu-ca nhấn mạnh một lần nữa từ: “máng cỏ” (2: 12, 16). Về phương diện vật chất, máng cỏ là chiếc nôi đầu đời của Con Thiên Chúa làm người; về phương diện tinh thần, Thiên Chúa đã làm cho mình trở nên nhỏ bé và nghèo hèn để được đón nhận. Ngài đến không chỉ để “cho”, nhưng cũng để “nhận”: nhận từ con người sự thờ phượng, lời cầu nguyện, lời ngợi khen và nhất là những cử chỉ yêu thương để rồi từ đó, “mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 24: 40).
 
3. Đức Ma-ri-a:
 
“Còn bà Ma-ri-a thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi nghĩ lại trong lòng”. Đây là một ghi nhận quý giá. Thánh Lu-ca vén mở cho chúng ta một trong những nguồn của sách Tin Mừng mang tên thánh nhân; ông đã tô điểm chuyện tích Giáng Sinh với nhiều chi tiết thiêng liêng, nhưng khởi đi từ những sự kiện mà ông đã gìn giữ từ chính Đức Nữ Trinh, Mẹ hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy và suy đi nghĩ lại trong lòng để cố hiểu hơn nữa mầu nhiệm của Con Mẹ.

 
GIÁNG SINH- LỄ NGÀY
 
Phụng Vụ Lời Chúa của ngày đại lễ Giáng Sinh tiếp tục mời gọi chúng ta suy gẫm sâu xa về biến cố Nhập Thể: Ngôi Lời Thiên Chúa hóa thân làm người để cứu độ chúng ta.
 
Is 52: 7-10
 
Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thời lưu đày, trổi lên khúc hoan ca, vì Thiên Chúa sắp ra tay cứu độ dân Ngài khỏi cảnh tù đày ở Ba-by-lon.
 
Dt 1: 1-6
 
Đây là lời tựa của thư gởi cho các tín hữu Do thái; lời tựa này tán dương những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể.
 
Ga 1: 1-18
 
Bản văn này là Tựa Ngôn của Tin Mừng thứ tư; Tựa Ngôn này cho chúng ta những tư tưởng thần học cao siêu về biến cố Nhập Thể.
 
BÀI ĐỌC I (Is 52: 7-10)
 
Bản văn này đưa chúng ta trở về những năm 550-539 trước Công Nguyên, ở Ba-by-lon và được trích từ tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, vị ngôn sứ thi hành sứ mạng của mình bên cạnh những người lưu đày để an ủi họ: ông hứa với họ Thiên Chúa sắp ra tay giải thoát họ.
 
1. Bối cảnh:
 
Trong đoạn văn này, vị ngôn sứ khai mở cho họ một viễn cảnh tương lai đẹp như trong mơ, trong đó một vị tiền hô từ trên núi đồi loan “tin vui, tin mừng” cho con cái thành Giê-ru-sa-lem biết là đoàn người lưu đày sắp hồi hương trở về thánh địa. Đây là Tin Mừng về ơn cứu độ và bình an, Tin Mừng về triều đại Thiên Chúa: “Thiên Chúa ngươi là vua hiển trị”.
 
Đối với thành thánh, vương quyền của Đức Chúa đã có thể khiến người ta sinh lòng ngờ vực do những năm tháng chịu trăm chiều thử thách và nhục nhã. Nhưng khi Đức Chúa sắp ra cánh tay hùng mạnh giải thoát dân Ngài ra khỏi cảnh giam cầm ở Ba-by-lon, Ngài cho thấy Ngài luôn luôn là Đấng toàn năng và là Vua dân Ít-ra-en. Ở đoạn văn này, chúng ta lưu ý rằng vị ngôn sứ không tìm cách an ủi những người lưu đày bằng cách gợi lên việc phục hưng vương triều Đa-vít, nhưng ông trung thành với lý tưởng xưa kia của dân Chúa chọn: chỉ duy một mình Thiên Chúa là Vua của dân Ngài. Vị ngôn sứ chỉ nghĩ đến “triều đại Thiên Chúa”.
 
2. Niềm vui của thành thánh Giê-ru-sa-lem:
 
Hai bài hoan ca sắp vang lên. Bài hoan ca thứ nhất là tiếng reo hò mừng vui của những người canh gác. Từ trên tường thành, họ thấy tận mắt đoàn rước mà từ lâu họ dõi mắt trông chờ: Đức Chúa dẫn đầu đoàn người được giải phóng trở về Xi-on, trở về thành đô của Ngài.
 
Bài hoan ca này được mô tả bằng những hình ảnh thật hoa mỹ. Khúc hoan ca này trổi lên dưới ngòi bút của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị khi ông mô tả đoàn người lưu đày hồi hương trở về quê cha đất tổ như một cuộc xuất hành mới, ở đó chính Đức Chúa thân hành dẫn dắt dân Ngài qua hoang địa (từ Ba-by-lon đến Giê-ru-sa-lem, phải băng qua sa mạc Sy-ri).
 
Bài hoan ca thứ hai là bài ca của thành thánh Giê-ru-sa-lem, được mô tả bằng những hình ảnh hoa mỹ không kém. Thành thánh Giê-ru-sa-lem điêu tàn hoang phế đồng thanh bật tiếng reo vỡ tràn niềm vui. Thành thánh tang thương được Thiên Chúa an ủi; nó được “cứu chuộc”, nghĩa là phục hồi sự tự do của mình. Muôn dân cứ tưởng rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en bất lực vì Ngài đã để dân Ngài phải lưu đày, khốn khổ, lưu lạc khắp nơi. Ấy vậy, chính mắt họ sắp phải thú nhận rằng họ đã lầm. Đức Chúa sắp “vung cánh tay thần lực của Ngài” và rồi thiên hạ mới mở mắt mà nhìn thấy “ơn cứu độ của Thiên Chúa chúng ta”.
 
Đó là “Tin Mừng” mà vị ngôn sứ thời lưu đày muốn vang lên bên tai của những người lưu đày ở Ba-by-lon. Tin Mừng đầu tiên này tiên trưng cho một Tin Mừng khác: Thiên Chúa đích thân mang ơn cứu độ đến cho dân Ngài, giải phóng họ khỏi cảnh sống tù đày mà cảnh giam cầm ở Ba-by-lon chỉ là một hình ảnh mờ nhạt, nhưng cảnh giam cầm của tội lỗi. Ngài sẽ thiết lập triều đại của Ngài, cho đến cùng trời cuối đất.
 
BÀI ĐỌC II (Dt 1: 1-6)
 
Bản văn này là lời mào đầu của thư gởi cho các tín hữu Do thái, trình bày tư tưởng rất thân cận với tư tưởng của Tin Mừng Gioan: cả hai đều tán dương quyền tối thượng khôn sánh của Thánh Tử, Ngôi Lời nhập thể. Vì thế, phụng vụ đề nghị cả hai vào ngày đại lễ Giáng Sinh này.
 
1. Chủ đề trung tâm của thư gởi cho các tín hữu Do thái:
 
Thư gởi các tín hữu Do thái gần với văn phong giảng huấn hơn là thể loại thư tín. Quả thật, chúng ta không biết cả người viết (chắc chắn một môn đệ của thánh Phao-lô) lẫn người nhận. Việc nêu tên “tín hữu Do thái” không tự nguồn gốc, chỉ được thêm vào sau này, vào thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên, để chỉ những Ki tô hữu gốc Do thái. Bức thư này được đặt vào bối cảnh của giữa năm 62 và 70.
 
Chủ đề trung tâm là “Chức Tư Tế” của Chúa Ki-tô. Khi cho Chúa Ki-tô tước hiệu “Thượng Tế Giao Ước Mới”, ông muốn chứng tỏ chức tư tế Tân Ước trổi vượt hơn biết mấy so với chức tư tế Cựu Ước. Để dẫn vào chủ đề này, một lời mào đầu, được viết rất hoa mỹ và rất điêu luyện, liệt kê những danh hiệu cao trọng khôn sánh của Con Thiên Chúa.
 
2. Kiện toàn Mặc Khải:
 
Các ngôn sứ (được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các tổ phụ và ông Mô-sê, vân vân) đã chỉ đón nhận những ánh sáng từng phần về mầu nhiệm Thiên Chúa và những dự định của Thiên Chúa. Thánh Tử đến để kiện toàn Mặc Khải (chúng ta nghĩ đến dụ ngôn về những tá điền sát nhân: ông chủ vườn nho liên tục sai phái những đầy tớ, sau cùng đứa con trai duy nhất của mình)). Thánh Gioan trong Tựa Ngôn cũng gợi lên nhịp độ tăng dần Mặc Khải này: “Từ nguồn sung mãn của Người, tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn kia. Lề Luật được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê, còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
 
Phải nêu lên rằng trong bản văn, từ “Thánh Tử” không có mạo từ. Danh hiệu “Thánh Tử” của Ngài được diễn tả một cách tuyệt đối, không có bất kỳ ai khác; điều mà thánh Gioan sẽ diễn tả khi nói: “Con Một” (Ga 1: 14).
 
3. Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật:
 
Thánh Tử vừa là Đấng thừa tự vừa Đấng Tạo Hóa: Ngài là Đấng thừa tự với tư cách con người và Ngài là Đấng Tạo Hóa với tư cách Thiên Chúa.
 
“Thiên Chúa đã đặt Người làm Đấng thừa hưởng muôn vật muôn loài”. Địa vị làm con bao gồm quyền thừa tự, nhưng quyền thừa tự được diễn đạt cách tinh tế theo truyền thống Kinh Thánh là phúc lộc của Thiên Chúa; hai ý tưởng được hội tụ ở đây. Xuống dưới một chút, tác giả viết: “Khi bắt muôn loài muôn sự phải phục quyền con người, Thiên Chúa không để cho một sự gì không phục quyền con người” (2: 8).
 
Quyền tối thượng trên muôn loài muôn vật này, chính là vương quyền của Đấng Mê-si-a, vương quyền mà xưa kia đã hứa cho hậu duệ của ông Áp-ra-ham (thừa tự và lời hứa là hai từ bất khả phân ly trong Cựu Ước), tức là quyền tối thượng được định đoạt trong công trình cứu độ loài người. Thánh Phao-lô cũng diễn tả một cách như vậy trong thư gởi cho các tín hữu Ga-lát: “Thế mà những lời hứa đã được ban cho ông Áp-ra-ham và dòng dõi ông, Kinh Thánh không nói: và cho những dòng dõi, như thể nói về nhiều, mà chỉ nói một: và cho dòng dõi người là Đức Ki tô” (Gl 3: 16).
 
4. Ngài là Đấng Tạo Hóa:
 
“Thiên Chúa đã nhờ Người mà dựng nên vũ trụ”. Thánh Gioan cũng sẽ nói như vậy trong Lời Tựa Ngôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành” (Ga 1: 3). Ở đây, từ “vũ trụ” có ngữ nghĩa rất rộng để chỉ muôn loài muôn vật sống ở trong vũ trụ này từ những thế hệ này đến những thế hệ khác.
 
5. Vẻ vinh quang và hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa:
 
“Người là phản ảnh vẻ vinh quang”. Để diễn đạt mối thâm giao của Cha với Con và căn tính Thần Linh của Cha và Con, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái sử dụng cùng những hình ảnh như tác giả của sách Khôn Ngoan khi diễn tả sự mật thiết khôn sánh giữa Đức Khôn Ngoan và Thiên Chúa: “Đức Khôn Ngoan phản chiếu ánh sáng vĩnh cửu, là tấm gương trong phản ánh hoạt động của Thiên Chúa, là hình ảnh lòng nhân hậu của Người” (Kn 7: 26). Nếu từ “vinh quang” thường xuất hiện trong Cựu Ước, cách diễn tả: “phản chiếu ánh sáng” chỉ được gặp thấy trong đoạn văn của sách Khôn Ngoan này. Thánh Gioan viết: “Ngôi lời là ánh sáng thật…Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật”, điều mà Công Đồng Ni-xê-a sẽ diễn tả: Ngài là “ánh sáng bởi ánh sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật, được sinh ra mà không phải được tạo thành”.
 
Tác giả thư gởi cho các tín hữu Do thái nói thêm: “là hình ảnh trung thực của bản thể Thiên Chúa”, như vậy, ông siết chặc gần hơn nữa ý tưởng theo đó Thánh Tử đồng bản thể với Chúa Cha, điều mà Công Đồng Ni-xê-a cũng sẽ khẳng định.
 
6. Bảo tồn vạn vật:
 
“Người là Đấng đã dùng lời quyền năng của mình mà duy trì vạn vật”. Ý tưởng Ki-tô học cũng được thánh Phao-lô diễn tả trong bài thánh thi của mình tán dương Đức Ki-tô: “Người có trước muôn loài muôn vật, tất cả đều tồn tại trong Người” (Cl 1: 17).
 
7. Đấng Cứu Độ duy nhất của loài người:
 
Trong bản tóm tắt thần học này, tác giả loan báo một cách ngắn gọn một chủ đề căn bản của bức thư: hy tế của Đức Ki-tô thì cao vời trên mọi hy tế không ngừng được tái diễn của Cựu Ước, vì hy tế của Đức Ki tô đã vĩnh viễn tẩy trừ tội lỗi của con người. Như ở gần cuối bức thư, tác giả viết: “Người đã vào cung thánh không phải với máu các con dê, con bò, nhưng với chính máu của mình, Người vào chỉ một lần thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc viễn cho chúng ta” (9: 12).
 
Sau khi đã tự hạ và chịu nhiều đau khổ, Thánh Tử được tôn vinh ngự bên hữu Chúa Cha trên các thiên thần.
 
8. Thánh Tử cao trọng trên các thiên thần:
 
 Những suy luận về các thiên thần đã được phát triển đáng kể vào những thế kỷ trước thời Đức Ki-tô, sau các sách khải huyền. Người ta có khuynh hướng gán cho các thiên thần một vai trò quan trọng trong việc tổ chức thế giới hữu hình cũng như trong thế vô hình. Người ta thấy ở nơi các ngài không chỉ những người canh giữ Lề Luật Mô-sê, nhưng còn những thiên linh có thể đem đến ơn cứu độ như các bản văn của cộng đoàn Qumran cho thấy.
 
Thánh Phao-lô nhiều lần lên tiếng chống lại những suy luận như vậy. Cũng thế, tác giả thư gởi các tín hữu Do thái công bố quyền tối thượng của Đức Ki-tô trên các thiên thần: “Danh hiệu Người được thừa hưởng, cao cả hơn danh hiệu các thiên thần bao nhiêu, thì Người lại trổi hơn họ bấy nhiêu”, tức là danh Thiên Chúa, như lời nhắc nhở của thánh Phao-lô cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2: 9).
 
Để chứng minh quyền tối thượng này của Đức Ki-tô, tác giả áp dụng vào việc phong vương của Thánh Tử ngự bên hữu Đấng Tối Cao trên trời những bản văn liên quan đến việc phong vương thời xưa, ở đó vị tân vương được gọi “thiên tử” theo cách biểu tượng và nghĩa tử. Câu trích dẫn đầu tiên được trích từ Thánh Vịnh 2: “Con là con của Cha, ngày hôm nay Cha đã sinh ra con” (Tv 2: 7). Câu trích dẫn thứ hai được mượn ở sách Sa-mu-en quyển thứ hai: Thiên Chúa hứa với vua Đa-vít ban cho vua một hoàng nam kế vị ngai báu của vua: “Đối với nó, Ta sẽ là cha, đối với Ta, nó sẽ là con” (2Sm 7: 14).
 
TIN MỪNG (Ga 1: 1-18)
 
Ngay từ đầu sách Tin Mừng của mình, các tác giả Tin Mừng giới thiệu Đức Giê-su mỗi người mỗi cách. Thánh Mác-cô giới thiệu Đức Giê-su là “Đấng Mê-si-a” trong trình thuật Đức Giê-su chịu phép rửa (Mc 1: 9-11), trong khi thánh Mát-thêu trong trình thuật về cuộc truyền tin cho thánh Giu-se và thánh Lu-ca trong trình thuật về cuộc truyền tin cho Đức Ma-ri-a, giới thiệu Đức Giê-su là “Con Thiên Chúa sinh bởi Đức Trinh Nữ Ma-ri-a”. Nhưng theo thánh Gioan giới thiệu như vậy là chưa đủ vì hai lý do. Thứ nhất, trước khi là Đấng Mê-si-a và là Con Thiên Chúa theo Cựu Ước, Đức Giê-su “đã là Ngôi Lời và là Thiên Chúa từ muôn thuở”. Thứ nữa, nếu nghe lời Mác-cô giới thiệu mà thôi, người đọc có thể lầm tưởng rằng Đức Giê-su là một phàm nhân được Thiên Chúa chọn làm con của Ngài. Còn nếu nghe hai thánh Mát-thêu và thánh Lu-ca giới thiệu, người đọc có thể liên tưởng đến những chuyện thần tiên dân ngoại. Vì thế, tác giả Tin Mừng thứ tư thấy cần phải mượn một bài thánh thi để giới thiệu Đức Giê-su là Ngôi Lời và là Thiên Chúa từ muôn thuở.
 
1. HÌNH THỨC:
 
Tựa Ngôn là một bài thánh thi được viết theo thể thi ca khác biệt với phần còn lại của sách Tin Mừng. Ngôn từ đơn giản, những từ chủ chốt được láy đi láy lại tạo thành nhịp điệu của bài thơ như những đợt sóng đuổi nhau càng lúc càng dâng cao cho đến khi hình thành nên con sóng cả vỗ vào bờ mầu nhiệm. Bài thánh thi nầy hình thành nên một đơn vị văn chương nhờ kỷ thuật đóng khung: bắt đầu với câu 1 và kết thúc với câu 18, cả hai câu này đều có chung từ ngữ và nội dung.
 
Xét về từ vựng của toàn bài thánh thi, một số từ ngữ như “nguồn sung mãn”, “Ngôi Lời”, “ân sủng” chỉ được gặp thấy trong Tựa Ngôn nầy mà không gặp thấy nơi nào khác trong Tin Mừng thứ tư. Như vậy, Tựa Ngôn có lẽ tự nguồn gốc là một bài thánh thi tồn tại riêng lẽ. Quả thật, thời Giáo Hội tiên khởi đã từng có những bài thánh thi như vậy, chẳng hạn như trong Ep 5: 14 hay trong Pl 2: 6-11.
 
Xét trên phương diện nhịp điệu và văn mạch, việc giới thiệu Gioan tẩy giả vào ở các câu 6-8 và 15 vừa làm ngắt nhịp điệu láy vừa làm gián đoạn liên ý giữa  câu 5 và câu 9, giữa câu 14 và câu 16 của bài thánh thi. Quả thật, với việc giới thiệu bất ngờ về Gioan tẩy giả (“Có một người”) ở các câu 6-8, dòng tư tưởng của bài thánh thi chuyển hướng từ tiền nhập thể đến nhập thể; và với việc giới thiệu lời chứng của Gioan tẩy giả ở câu 15, làm gián đoạn liên ý của câu 14 và câu 16 về đề tài ân sủng và sự thật của Ngôi Lời Nhập Thể. Vì thế, các nhà chú giải nghĩ rằng phần giới thiệu Gioan tẩy giả (1: 6-8, và 15) được thêm vào bài thánh thi nguyên tác sau nầy.
 
Nếu chúng ta tách riêng việc giới thiệu Gioan tẩy giả như những phần thêm vào sau nầy, bài thánh thi nguyên tác giới thiệu Ngôi Lời theo chuyển động thời gian: từ cuộc sống tiền hữu với Thiên Chúa (1: 1-2), dự phần vào công trình sáng tạo (1: 3), tiếp tục hiện diện ở giữa nhân loại như nguồn sống và ánh sáng (1: 4-5), qua công trình sáng tạo (1: 9-10) và qua việc tuyển chọn dân Ít-ra-en (11), để mà những ai tin vào Ngài thì sẽ trở nên con cái Thiên Chúa (13), đoạn, nhập thể như tuyệt đỉnh của sự hiện diện của Ngài ở giữa nhân loại (1: 14), trở thành nguồn thiên ân sung mãn cho loài người (1: 16-17), mặc khải tròn đầy và dứt khoát Chúa Cha cho nhân loại (1: 18).
 
Tuy nhiên, nhiều nhà chú giải khác chấp nhận bài thánh thi nầy theo cùng trật tự của những sự kiện như được trình bày trong bản văn hiện nay. Vì thế, họ vạch ra cho thấy bài thánh thi nầy được cấu trúc theo kỷ thuật “song đối đồng tâm”, nghĩa là, từng cặp chủ đề đều hướng về một câu phát biểu trung tâm:
 
A. Ngôi Lời với Thiên Chúa               A’. Chúa Con mặc khải Chúa Cha
                 (1: 1-2)                                                        (1: 18)
B. Vai trò trong cuộc sáng tạo          B’. Vai trò trong cuộc tái tạo
                (1: 3)                                                       (1: 17)
C. Ân huệ cho loài người                  C’. Ân huệ cho loài người
                (1: 4-5)                                                     (1: 16)
D. Chứng từ của Gioan                     D’. Chứng từ của Gioan
                (1: 6-8)                                                      (1: 15)
E. Ngôi Lời nhập thế                          E’. Ngôi Lời Nhập Thể
                 (1: 9-11)                                                    (1: 14)
                     F. Nhờ Ngôi Lời, chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa
                                             (1: 12-13)
2. NỘI DUNG:
 
A. Ngôi Lời với Thiên Chúa (1: 1-2):
 
Câu thứ nhất nầy bao gồm ba mệnh đề ngắn. Danh từ đơn sơ, nhưng tư tưởng vươn cao lên theo từng mệnh đề. Quả thật, động từ trong cả ba mệnh đệ vẫn là “eimi”, nhưng động từ ấy lại mang nhiều nét nghĩa khác nhau theo từng mệnh đề.
 
Trong mệnh đề thứ nhất, động từ nầy mang nét nghĩa “hiện hữu”: “Ngôi lời đã có, đã hiện hữu”. Trong mệnh đề thứ hai, động từ này mang nét nghĩa “hiện diện” nhưng được đi kèm theo với giới từ “pros” để diễn tả không là một sự hiện diện thụ động: “ở với” hay “ở cùng”, nhưng một sự hiện diện đầy năng động trong mối liên hệ với Thiên Chúa: Ngôi Lời hiện diện trong tư thế hằng hướng về Chúa Cha. Trong mệnh đề thứ ba, cũng một động từ nầy nhưng được sử dụng để diễn tả bản thể. Quả thật, danh từ “Theos” (“Thiên Chúa”) ở đây không có mạo từ để diễn tả bản thể Thiên Chúa, khác với danh từ “Theos” có mạo từ (ton theon) để chỉ một ngôi vị như ở  mệnh đề thứ hai trên: ở mệnh đề thứ hai: “Ngôi Lời vẫn hướng về Thiên Chúa”, ở đây, từ Thiên Chúa có mạo từ nên phải hiểu: “Ngôi Lời vẫn hướng về Chúa Cha”; trong khi ở mệnh đề thứ ba: “Ngôi Lời là Thiên Chúa”, ở đây, từ Thiên Chúa không có mạo từ nên phải hiểu: “Chúa Con không phải là Chúa Cha, nhưng cũng là Thiên Chúa như  Chúa Cha”.
 
Chúng ta cũng gặp thấy cách dùng này trong 2Cr 13: 13: “Ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô (có mạo từ), tình thương của Thiên Chúa (có mạo từ) và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần (có mạo từ)” (2Cr 13: 13). Trong bản văn của thánh Phao-lô, mạo từ xác định Ngôi Con, Ngôi Thánh Thần, thì từ “Theos” có mạo từ xác định phải được hiểu là Ngôi Cha.
 
Câu 2: “Lúc khởi đầu, Người vẫn hướng về Thiên Chúa” chủ yếu lập lại điều đã được nói rồi ở mệnh đề thứ nhất của câu 1, đóng chức năng như kỷ thuật đóng khung cho phân đoạn nầy.
 
Ngay từ khởi đầu Tựa Ngôn, những lời đầu tiên: “Lúc khởi đầu” của mệnh đề thứ nhất thiết lập nên một sự song đối giữa lời mở đầu của sách Tin Mừng và lời mở đầu của bài trình thuật Kinh Thánh về công trình sáng tạo hoàn vũ của Thiên Chúa ở St 1: 1, tuy nhiên, có sự khác biệt căn bản. “Lúc khởi đầu” của St 1: 1 chủ ý ám chỉ rằng kể từ lúc ấy muôn loài muôn vật mới bắt đầu xuất hiện, nhưng tác giả của Tin Mừng thứ tư loan báo rằng thậm chí vào lúc đó đi nữa Ngôi Lời đã hiện hữu rồi mà không được tạo thành. Như vậy, ngay từ đầu của Tựa Ngôn, tác giả đã đặt Ngôi Lời bên ngoài những giới hạn thời gian và không gian của công trình sáng tạo.
 
Hơn nữa bài trình thuật của sách Sáng Thế nói với chúng ta rằng Thiên Chúa tạo dựng muôn loài muôn vật bằng lời của Ngài: “Thiên Chúa phán…”. Quả thật chính nhờ “lời” của Thiên Chúa mà vạn vật hiện hữu. Ấy vậy, trong Tựa Ngôn, với từ logos có mạo từ, tác giả không muốn nói đến “lời sáng tạo của Thiên Chúa” theo nghĩa chung chung, nhưng là một ngôi vị. Chúng ta gặp thấy tư tưởng nầy về Đức Khôn Ngoan Thiên Chúa ở nơi các sách minh triết. Trong Cn 8: 22-31 hay Kn 9: 9-12, Đức Khôn Ngoan được nhân cách hóa, trước tiên ở với Thiên Chúa, đoạn dự phần vào công trình sáng tạo, đến mặt đất, và trở thành ân ban cho nhân loại. Chúng ta gặp thấy cũng một tiến trình nầy ở nơi Tựa Ngôn. Trong Tựa Ngôn, chúng ta có một sự hiệp nhất của Đức Khôn Ngoan với Ngôi Lời Thiên Chúa, một ngôi vị thần linh không được tạo thành và đồng hiện hữu với Chúa Cha.
 
B. Vai trò trong cuộc sáng tạo (1: 3).
 
Sau khi nói đến mối tương quan của Ngôi Lời với Chúa Cha, bây giờ tác giả nói đến mối tương quan của Ngôi Lời với công trình sáng tạo.
 
Trước hết, ở câu 1 và câu 2, động từ “eimi” (“là”) thuộc thì “hiện tại hoàn thành” (present perfect) để diễn tả “một tình trạng hoặc một hành động đã xảy ra trong quá khứ, tiếp tục trong hiện tại và còn kéo dài trong tương lai”; trái lại, ở câu 3, động từ ginômai (trở thành) thuộc thì “quá khứ đơn” để chỉ “một tình trạng hay một hành động được xác định trong quá khứ và hoàn tất trong quá khứ”. Như vậy, ở câu 1 với động từ eimi thuộc thì hiện tại hoàn thành, tác giả muốn nói: Ngôi Lời đã hiện hữu “trước thời gian và sau thời gian nữa”. Trái lại, ở câu 3 với động từ ginômai thuộc thì quá khứ đơn, tác giả muốn nói rằng Thiên Chúa đã sáng tạo vạn vật “trong thời gian nào đó nhất định và chấm dứt trong thời gian”.
 
Tư tưởng nầy càng nổi bật, khi so sánh động từ eimi ở thì hiện tại hoàn thành của câu 1 và động từ ginômai ở thì quá khứ đơn của các câu 3, 6 và 14. Như vậy, với những hai động từ khác nhau được sử dụng với hai thì khác nhau như đã nói trên, tác giả muốn nói rằng Ngôi Lời hiện hữu muôn thuở (câu 1); trái lại, Thiên Chúa đã tạo dựng muôn loài muôn vật (câu 3), đã sai phái thánh Gioan Tẩy Giả đến để làm chứng (câu 6) và đã sai phái Ngôi Lời xuống thế làm người (câu 14), tất cả những biến cố nầy xảy ra trong một thời gian nhất định và chấm dứt trong thời gian.
 
Đây một sự trùng hợp có chủ ý, động từ ginômai ở thì quá khứ đơn đã được tác giả của sách Sáng Thế sử dụng khi nói Thiên Chúa tạo thành vạn vật (1: 1-2: 4a) cũng được dùng trong Ga 1: 3. Vả lại, để diễn tả hành động tạo dựng của Thiên Chúa, tác giả sách Sáng Thế đã dùng một động từ Hy bá đặc biệt “bara” mà thần học gọi hành động ấy là sáng tạo từ hư không (ex nihilo), sáng tạo theo nghĩa tuyệt đối, chứ không theo nghĩa thường dùng, như khi ta nói óc sáng tạo.
 
C. Ân huệ ban cho nhân loại (1: 4-5).
 
Nhờ Ngôi Lời, van vật được tạo thành, tách ra khỏi lãnh vực hoạt động của Ngài không có gì có thể hiện hữu. Ở đây, có hai vấn đề: ngắt câu và ý nghĩa. Trước hết là vấn đề ngắt câu:
 
Mệnh đề: “cái đã được tạo thành” thuộc về câu 3 hay câu 4?
 
- Cách đọc thứ nhất:
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật đã được tạo thành.
Và không có Người,
thì chẳng có gì đã được tạo thành.
Điều  đã được tạo thành” (c.3).
“Ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại” (c. 4)
 
- Cách đọc thứ hai:
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật đã được tạo thành.
Và không có Người,
 thì không gì đã được tạo thành”(c.3).
“Điều đã được được tạo thành
 ở nơi Người là sự sống,
và sự sống là ánh sáng cho nhân loại (c. 4)
 
Các nhà chuyên môn chọn cách đọc thứ hai với lập luận hữu lý sau:
 
1- Nếu cụm từ “điều đã được tạo thành” ở cuối câu 3, thì hai câu 3 và 4 mất hết thăng bằng đối xứng: câu 3 quá dài trong khi câu 4 lại quá ngắn..
 
2- Ở câu 1 và câu 4, các mệnh đề được nối lại với nhau bằng “từ láy”, các từ láy ấy ở cuối mệnh đề trước và ở đầu mệnh đề sau:
 
Câu 1:
…………………Ngôi Lời.
Ngôi Lời………Thiên Chúa.
Thiên Chúa……………….
Câu 4 và 5:
………………….sự sống.
Sự sống…………ánh sáng.
 
Nếu cụm từ “điều đã được tạo thành” thuộc về câu 3, thì “điều đã được tạo thành” ở cuối câu 3 được lập lại đến hai lần. Trái lại, nếu “điều đã được tạo thành” thuộc về câu 4, thì “điều đã được tạo thành” nằm ở cuối câu 3 và ở đầu câu 4. Vì thế, “điều đã được tạo thành” làm nhịp cầu nối cho hai câu này: ở cuối câu 3 và đầu câu 4. Và, như thế, đúng là lối hành văn của bài thánh thi có cùng chung nhịp điệu của những từ láy.
 
Vì những lý do kể trên, câu 3 và câu 4 nên được phân câu như sau theo cùng một lối hành văn của bài thánh thi:
 
“Nhờ Ngôi Lời, vạn vật đã được tạo thành,
và không có Người,
thì chẳng có gì đã được tạo thành (câu 3).
Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống,
sự sốngánh sáng cho nhân loại” (câu 4).
 
Như vậy, câu 4 muốn nói rằng sự sống của muôn loài muôn vật đều bắt nguồn ở nơi Ngôi Lời của Thiên Chúa. Ngôi Lời là nguồn mạch của tất cả những gì có thể đưa loài người đến cuộc sống trọn vẹn, cuộc sống tự nhiên cũng như cuộc sống siêu nhiên.
 
Động từ Hy lạp “xata-lambano” ở trong câu 5b: “và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” bao gồm hai nghĩa, nghĩa thứ nhất: “nắm bắt được”, “hiểu được”, nghĩa thứ hai: “lấn át”, “chế ngự”. Qua động từ Hy lạp hai nghĩa nầy, tác giả ngầm quy chiếu đến sự kiện: vì tội lỗi, nhân loại khước từ ánh sáng của Thiên Chúa, và dẫn đưa bóng tối sự ác vào trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa. Tuy nhiên, tác giả nhấn mạnh rằng những quyền lực bóng tối nầy đã không tài nào lấn át nổi hay chế ngự được ánh sáng. Ở đây ám chỉ đến chủ đề sa ngả và lời hứa về cuộc chiến thắng tối hậu của hậu duệ người phụ nữ trên con rắn ở St 3: 15.
 
D. Chứng từ của Gioan Tẩy Giả (1: 6-8)
 
Như một ví dụ về một luồng sáng vẫn chiếu sáng trong bóng tối, Tựa Ngôn giới thiệu Gioan Tẩy Giả, ông đến để nhắc nhở ánh sáng cho nhân loại.
 
Như chúng ta đã nhận xét trước đây, các câu 6-8 giới thiệu Gioan Tẩy Giả được chen vào đây làm lỗi nhịp điệu thi ca lẫn làm gián đoạn dòng tư tưởng liên tục của các câu 5 và 9. Có thể tự nguồn gốc những câu giới thiệu Gioan Tẩy Giả nầy đã ở nơi khác trong sách Tin Mừng Gioan, có lẽ trước 1: 19. Đa số các nhà nghiên cứu đều cho rằng đoạn văn về Gioan Tẩy Giả nầy được tác giả đưa vào sau này để khuyên ngăn các môn đệ của mình không nên đặt vị ngôn sứ vĩ đại nầy ngang hàng với Chúa Giê-su, nhưng có một sự khác biệt triệt để phân cách giữa hai vị: Chúa Giê-su là ánh sáng trong khi Gioan Tẩy Giả không là ánh sáng, nhưng là chứng nhân của ánh sáng.
 
E. Ngôi Lời nhập thế (1: 9-11)
 
Với câu 9: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian và chiếu soi mọi người”, phải chăng tác giả bắt đầu nói đến biến cố Ngôi Lời nhập thể hay chỉ nói đến những cách thế hiện diện của Ngôi Lời trong thế giới trước khi nhập thể?
 
Vài nhà chú giải (Lagrange, Bultmann) cho rằng tác giả bắt đầu nói đến sự kiện nhập thể, bởi vì tác giả đã giới thiệu Gioan Tẩy Giả, vị Tiền Hô của Đức Giê-su trước đó rồi.
 
Tuy nhiên nhiều Giáo Phụ lại cho rằng ở đây, bài thánh thi chỉ muốn nói đến những cách thế Ngôi Lời hiện diện trước khi nhập thể: hiện diện khi sáng tạo (1: 10), khi chọn dân Ít-ra-en làm dân riêng của Ngài (1: 11). Hơn nữa, động từ “đến” ở phân từ hiện tại không ám chỉ một thời gian nhất định, nhưng ám chỉ một sự việc kéo dài, “bao gồm tất cả những lần Người đến với thế gian”. Như vậy, câu 9 “ánh sáng đến trong thế gian” muốn nói Ngôi Lời đã đến nhiều lần: đến khi sáng tạo (1: 10), đến một cách đặc biệt với dân Ít-ra-en (1: 11) và đến khi nhập thể nữa (1: 14).
 
Vì thế, câu 9-10 mô tả cách thế hiện diện của Ngôi Lời ở giữa thế gian, bởi vì Thiên Chúa đã nhờ Ngôi Lời mà sáng tạo thế gian. Nhưng nghịch lý là thế gian “đã không nhận biết Người”. Động từ “biết” được sử dụng ở đây không theo nghĩa của động từ Hy lạp: “biết”“nhận biết”, “hiểu biết” trên bình diện tri thức mà thôi, nhưng theo nghĩa Sê-mít: “biết” không chỉ hiểu biết Ngài trên bình diện lý trí mà nhất là còn phải “biết” với trọn tấm lòng của mình nữa, nghĩa là phải tôn kính và yêu mến Ngài bằng trọn cả khối óc và con tim (Cr 22: 15-16). Đúng ra, thế gian phải nhận biết và yêu mến Ngôi Lời, vì từ công trình sáng tạo, thế gian có thể đi đến Đấng Tạo Hóa như “từ kết quả đi đến nguyên nhân” (Rm 1: 19-23; Kn 13: 1-9). Nhưng thế gian đã chìm đắm trong bóng tối tội lỗi, nên đã khước từ ánh sáng là Ngôi Lời (3: 19-21; 12: 31; 14: 17; 17: 25). Cựu Ước cũng đã nhiều lần nói đến thái độ của thế gian: “không nhận biết và yêu mến Đức Khôn Ngoan” của Thiên Chúa (Cn 1: 2; 4: 1; 9: 10; 30: 3; Hc 6: 27; 18: 28). Ở đây (Ga 1: 10), thay vì Đức Khôn Ngoan, tác giả nói Ngôi Lời.
 
Câu 11 cho thấy Ngôi Lời còn đi thêm một bước nữa trên con đường nhập thế, Ngài đã đến và ở giữa dân Chúa chọn nơi Luật của ông Mô-sê và Lời của các ngôn sứ qua các thời đại. Nhưng dân riêng của Ngài, người nhà của Ngài cũng khước từ Ngài, không đón nhận Ngài.
 
Các câu 9-11 tóm gọn một trong những chủ đề lớn của toàn bộ sách Tin Mừng thứ tư. Ánh sáng thật đã vào trong thế gian mà Ngài đã sáng tạo; và thế gian, bị tội lỗi thống trị, đã khước từ Đức Giê-su. Ngài đã đến người nhà của mình, và dân chúng đã được ông Mô-sê và các ngôn sứ chuẩn bị đón Ngài cũng khước từ Ngài.
 
F. Nhờ Ngôi Lời, chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa (1: 12-13).
 
Theo cấu trúc song đối đồng tâm của Tựa Ngôn, các câu 12-13 là lời phát biểu trung tâm mà tất cả các câu song đối đều hướng đến như đỉnh cao của toàn bài Tựa Ngôn.
 
Ngược lại với thái độ khước từ của thế gian và dân riêng của Ngài, có những người đã đón nhận Ngài, nghĩa là đã tin vào Ngài, Ngài sẽ cho họ quyền trở thành con cái Thiên Chúa. Đây cũng là một trong những chủ đề lớn của sách Tin Mừng thứ tư bàn đến ơn cứu độ của những người tin nầy. Họ hình thành nên “những kẻ thuộc về Ngài” (Ga 13: 1) “những người nhà mới của Ngài”. Họ được sinh ra làm con cái Thiên Chúa không phải do khả năng của con người, cũng không do ước muốn của phàm nhân, nhưng do quyền năng Thiên Chúa (Ga 3: 5-6). Chúa Con sẽ thở hơi Thần Khí ban sự sống mới của Ngài trên họ (Ga 20: 22) như Thiên Chúa đã thổi hơi thần khí ban sự sống trên ông A-đam (St 2: 7).
 
 Đó sẽ là một cuộc sáng tạo mới thay thế cho cuộc sáng tạo cũ đã khước từ Thiên Chúa (Kh 21: 1). Cuộc sáng tạo mới thay thế cuộc sáng tạo cũ như thế nào, giao ước mới thay thế giao ước cũ với dân Ít-ra-en trên núi Xi-nai như vậy, vì dân tự nguồn gốc là dân riêng của Ngài đã khước từ Ngài. Một chủ đề thường hằng trong sách Tin Mừng là việc Đức Giê-su thay thế những định chế: Đền Thờ và các ngày lễ của “người Do thái”.
 
E’. Ngôi Lời nhập thể (1: 14).
 
Câu này được dịch theo sát từ: “Ngôi lời đã trở thành xác thịt và dựng lều ở giữa chúng ta”. Trong Kinh Thánh, “xác thịt” không phải chỉ xác thể mà còn chỉ cả hồn, nghĩa là trọn vẹn con người. Ngôi Lời đã làm người, trở thành một phàm nhân, không có nghĩa là, khi đã làm người, Ngôi Lời không còn là Thiên Chúa nữa. Khi đã nhập thể, Ngôi Lời vẫn là Thiên Chúa, và sau khi Nhập Thể, Ngôi Lời vẫn còn là một con người. Mầu nhiệm Nhập Thể mà chúng ta tuyên xưng: Ngài là Thiên Chúa thật và con người thật.
 
 Với thuật ngữ “dựng lều” hay “cắm lều”, tác giả gợi lên nhiều ý tứ man mác. Trước hết, “cắm lều” là đến và ở tạm thời. Như người du mục cắm lều nay đây mai đó, Ngôi Lời cũng chỉ đến và ở với chúng ta trong một thời gian nào đó mà thôi, vì Ngài phải về cùng Chúa Cha. Nhưng nói đúng hơn, thuật ngữ “cắm lều” gợi lại việc Thiên Chúa ở với dân Ngài trong cuộc hành trình băng qua sa mạc. Trên con đường từ Ai-cập về Đất Hứa, dân Do thái cắm lều nay đây mai đó như dân du mục. Trong thời gian Xuất Hành ấy, Thiên Chúa đã hứa với ông Mô-sê Ngài sẽ đồng hành với dân về Đất Hứa. Vì thế, Ngài đã bảo ông Mô-sê dựng cho Ngài một lều ở giữa các lều của dân. Vào ngày khánh thành, Thiên Chúa cho lều của Ngài tràn ngập những áng mây và vinh quang rực rỡ như dấu chỉ cho biết “Ngài hiện diện trong lều”. Thế là, Thiên Chúa cắm lều giữa dân Ngài và ở lều như dân Ngài (Xh 33: 9-10).
 
Từ đó, “dựng lều” hay “cắm lều” trở thành thành ngữ để chỉ Thiên Chúa ở giữa dân Ngài (Ds 12: 5; 2Sm 7: 6; Tv 78: 60; Ge 4: 17, 21; Dcr 2: 14; Hc 24: 8). Trong Cựu Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài trong lều của Ngài vào thời Xuất Hành, ở trong Đền Thờ khi dân định cư ở Đất Hứa, và còn ở trong Lề Luật Mô-sê nữa (Hc 24: 7-22; Br 3: 36-44). Nhưng trong Tân Ước, Thiên Chúa hiện diện giữa dân Ngài còn thân thiết và gần gũi hơn nhiều. Ngài hiện diện bằng chính bản thân và một cách hữu hình, chứ không bằng áng mây hay Lề Luật như thuở xưa. Quả vậy, Ngôi Lời Thiên Chúa đã lấy xác phàm hữu hình để ở giữa chúng ta và đưa chúng ta từ thế giới chóng qua đến thế giới vĩnh cữu: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12: 32).
 
Trong Cựu Ước, nói “vinh quang của Thiên Chúa” là nói “Thiên Chúa tỏ mình” trong quyền năng của Ngài. Nói chung, những phép lạ Thiên Chúa thực hiện lúc dẫn đưa dân Ngài từ Ai-cập về Đất Hứa, là những thành quả của quyền năng và vinh quang Thiên Chúa (Xh 15: 1-7; 16: 7-8). Trong Tân Ước, nhân tính của Ngôi Lời, thân thể của Ngài, trở thành nơi tuyệt mức Thiên Chúa ở giữa dân Ngài và bày tỏ vinh quang của mình. Ngài bày tỏ vinh quang của Ngài qua những phép lạ, đặc biệt sự kiện phục sinh (13: 31; 17: 2-5; 12: 23, 28). Vì thế, câu nói, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Ngài” có nghĩa là chúng ta đã được nhìn thấy “các phép lạ Người làm lúc sinh thời”. Những phép lạ khả dĩ làm cho thiên hạ phải tôn vinh Người.
 
Khi viết, “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng”, tác giả liên tưởng đặc biệt đến việc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, một sự kiện mà chính tác giả là một trong ba môn đệ được diễm phúc chứng kiến. Quả thật, so sánh câu phát biểu nầy với các bài trình thuật Nhất Lãm về cuộc Biến Hình đều có hai yếu tố: các tông đồ nhìn thấy vinh quang của Đức Giê-su và Đức Giê-su được Chúa Cha công bố là Con Một của Ngài (Con Một và Con yêu dấu là hai từ đồng nghĩa, dịch cùng một từ Hy bá).
 
Nói tóm lại, vinh quang của Thiên Chúa là những gì làm cho loài người nhận biết Thiên Chúa hiện diện và vinh quang của Ngài rực rỡ đến nỗi người phàm nhìn thấy là có thể chết ngay (Xh 24: 16tt). Vì thế, để cho loài người có thể nhìn thấy được, vinh quang ấy phải có cái gì phủ che, thời xưa là áng mây, ngày nay là nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể. Tuy nhiên, người phàm cũng được thoáng thấy vinh quang ấy đôi khi, như nhân dịp Đức Giê-su biến đổi hình dạng (Lc 9: 32, 35) hoặc qua các phép lạ (Ga 2: 11; 11: 40; 14: 24-27 và 15: 7), nhất là sự kiện “Phục Sinh là một sự tỏ mình ra thập phần vinh quang” (17: 5tt).
 
Trong Cựu Ước, hai từ “ân sủng”“sự thật” thường đi đôi với nhau để diễn tả hai ưu phẩm của Thiên Chúa là “tình thương”“thành tín”. Nói Thiên Chúa giàu tình thương và thành tín là nói Thiên Chúa “trước sau như một, luôn luôn yêu thương và tha thứ” (Xh 34: 6; Tv 25: 10; 40: 11; 61: 8 và nhất là Tv 89). Vì thế, chúng ta có thể hiểu, cũng như Chúa Cha, Ngôi Lời cũng giàu lòng yêu thương và thành tín, cũng trọn niềm yêu thương, tha thứ. Vì thế, cộng đoàn Gioan, cộng đoàn của Giao Ước Mới xác quyết rằng nơi con người của Đức Giê-su, họ đã nhận thấy vinh quang mà Thiên Chúa đã ban cho Ngài, Đấng giàu lòng nhân nghĩa và thành tín, trước sau như một.
 
D’. Chứng từ của Gioan (1: 15)
 
Một lần nữa, lời chứng của Gioan Tẩy Giả phá vỡ nhịp điệu và liên ý giữa câu 14 và câu 16. Giữa những người đã nhìn thấy vinh quang của Con Một Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả là người đầu tiên lớn tiếng tuyên bố mầu nhiệm của Đấng không những hiện hữu trước ông, mà còn là Đấng hiện hữu ngay từ lúc khởi thủy.
 
C’. Ân huệ cho loài người (1: 16)
 
Cộng đoàn của những người tin chứng nhận rằng mình đã đón nhận mặc khải tối hậu của Đấng đầy tràn ân sủng và sự thật. Diễn ngữ “ơn nầy đến ơn khác” được hiểu theo hai cách: cách thứ nhất: “ân sủng nầy nối tiếp ân sủng khác  trong thời Tân Ước”; cách thứ hai: “ân sủng thời Tân Ước thay thế ân sủng thời Cựu Ước”. Vì giới từ “anti” không có nghĩa (chồng chất) “trên nhau”, nên chúng ta chọn cách thứ hai, nếu vậy thánh ký muốn nói rằng: Ân sủng mà ngày xưa, Thiên Chúa đã ban cho dân Ít-ra-en qua ông Mô-sê, thì nay Người lại ban cho chúng ta qua Người Con Một.
 
B’. Vai trò trong cuộc tái tạo (1: 17)
 
Ở đây hai người trung gian được đặt gần kề nhau: ông Mô-sê và Đức Giê-su, trở nên đề tài của những cuộc tranh luận trong Tin Mừng thứ tư. Chúng ta được dự phần vào Giao Ước Mới nầy thay thế Giao Ước Cũ. Những lời của Thiên Chúa, tức Thập Giới, được ghi khắc vào bia đá cho ông Mô-sê trên núi Xi-nai như cách diễn tả tấm lòng từ bi và nhân hậu của Thiên Chúa trong Giao Ước Cũ. Bây giờ, Lời Thiên Chúa được ghi khắc vào thân thể của Đức Giê-su, Đấng đầy tràn ân sủng và sự thật hiện thân tấm lòng từ bi và nhân hậu của Thiên Chúa trong Giao Ước Mới.
 
A’. Chúa Con mặc khải Chúa Cha (1: 18)
 
Thiên Chúa đã không để cho ông Mô-sê được thấy Ngài trong Cựu Ước; bây giờ Con Một đày tràn ân sủng và sự thật của Ngài, Đấng đã biết Thiên Chúa từ cõi đời đời mặc khải Ngài. Sách Tin Mừng là câu chuyện về mặc khải nầy: kỳ vọng của Đức Giê-su là trở nên con đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha, trở nên nhà chú giải duy nhất về Thiên Chúa.
 
Kết luận:
 
Từ chủ chốt của Tựa Ngôn là từ “Ngôi Lời”. Tự nguồn gốc, từ “Ngôi Lời” được dịch từ “Logos” của Hy ngữ, nhưng được thánh ký sử dụng một cách độc đáo đến nỗi từ Hy ngữ nầy thấm nhuần tư tưởng của từ “Daba” (“Lời”) của Cựu Ước. Trong Cựu Ước, Logos có nghĩa là lời Thiên Chúa nói ra, là điều Thiên Chúa mặc khải qua vũ trụ, qua biến cố và, nói chung, qua Thánh Kinh (Cn 8: 23-36; Hc 24: 1-22). Tất cả những tư tưởng ấy đều gặp trong Tin Mừng Gioan. Nhưng còn hơn thế nữa, tác giả đã chọn từ Hy lạp “logos”với mạo từ không để diễn tả “Lời” một cách chung chung, nhưng Lời là một ngôi vị. Ngôi Lời ngay từ khởi thủy đã hiện diện trong cung lòng của Thiên Chúa, Ngài là Thiên Chúa, là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình (Cl 1: 15), là phản ảnh vẽ huy hoàng và trung thực của bản thể Thiên Chúa (Dt 1: 3). Với biến cố Nhập Thể, Ngôi Lời là Mặc Khải tuyệt mức và dứt khoát của Thiên Chúa giữa lòng nhân loại (1Ga 1: 2). Tuy nhiên, thế gian đã không biết Ngài, dân Ngài cũng khước từ Ngài. Nhưng ai tiếp đón Ngài, Ngôi Lời ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa. Họ được quyền làm con Thiên Chúa như vậy, không phải do người phàm, mà là do Thiên Chúa (1: 12-13).
 
Do đó, chỉ vỏn vẹn mười tám câu, bài thơ được tạo dáng một cách nghệ thuật tóm tắt những chủ điểm Thần Học của Tin Mừng Gioan: Đức Giê-su Na-da-rét là Mặc Khải tối hậu của Thiên Chúa, Đấng giải thích cắt nghĩa Thiên Chúa. Nói cho cùng, Đức Giê-su không chỉ là Đấng Trung Gian của Thiên Chúa đối với chúng ta, Ngài đích thực là Thiên Chúa, là Lời Thiên Chúa và Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa hiện thân để nói lời tối hậu của Thiên Chúa.

 
LỄ THÁNH GIA
 
      Lễ Thánh Gia nhắc chúng ta nhớ đến những năm tháng âm thầm của Đức Giê-su trong suốt thời thơ ấu và trưởng thành dưới mái ấm gia đình Na-da-rét, mẫu gương của mọi gia đình.
 
      Hc 3: 2-6, 12-14.
 
      Hiền nhân Si-rác khuyên con cái phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ, nhất là khi các ngài già yếu.
 
      Cl 3: 12-21.
 
      Thánh Phao-lô mời gọi các tín hữu Cô-lô-sê trong đời sống cộng đoàn và trong đời sống gia đình thực hành những đức tính như “thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại”, đặc biệt là “yêu thương” đó là mối dây tuyệt hảo liên kết mọi thành viên nên một.
 
      Lc 2: 22-40.
 
      Tin Mừng Lu-ca tường thuật lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Hài Nhi Giê-su ở Đền Thánh, đoạn gợi lên một cách ngắn gọn thời thơ ấu của Đức Giê-su ở dưới mái ấm gia đình Na-da-rét.
 
      BÀI ĐỌC I (Hc 3: 2-6, 12-14)
 
     Ông Si-rac là một hiền nhân Do thái vào đầu thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Ông mở trường dạy học và ghi lại vốn kinh nghiệm và những gẫm suy thế sự của mình. Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Do thái, sau đó được cháu nội của ông dịch ra tiếng Hy lạp vào năm 130 trước Công Nguyên.
 
      Tác phẩm của ông là sách đạo đức về cách ăn nếp ở thực tiển. Ông viết tác phẩm nầy vì muốn trung thành với niềm tin của cha ông mình và không muốn dân mình bị ảnh hưởng bởi văn hóa của dân ngoại chung quanh và đặc biệt bởi những quyến rủ của sự khôn ngoan Hy lạp. Sách ông bàn đến nhiều đề tài rất khác nhau. Sách được điểm xuyết bằng những câu châm ngôn dể nhớ và được Do thái giáo mến chuộng. Giáo Hội cũng xem sách nầy như Sách Thánh của mình.
 
      Sách cho thấy ông rất gắn bó với Lề Luật. Theo ông, việc thực hành Lề Luật là nguồn mạch khôn ngoan. Trong chương 3, hiền nhân Si-rác triển khai phận làm con là phải có lòng thảo kính đối với cha mẹ mình, một trong Mười Giới Răn: “Ngươi hãy thảo kính cha mẹ, để được sống lâu trên đất mà Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, ban cho ngươi” (Xh 20: 12; Đnl 5: 16).
 
      1. Thảo kính cha mẹ, đạo tự nhiên.
 
      Bổn phận thảo kính đối với cha mẹ nhất là vào lúc các ngài già yếu thuộc về những truyền thống rất lâu đời của các nền văn minh, được các tôn giáo lẫn triết học ca ngợi. Chúng ta có thể sánh ví những lời khuyên bảo của hiền nhân Cựu Ước nầy với nhiều bản văn của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy lạp xưa. Ở Trung Quốc cũng như ở Ấn độ, bổn phận đối với cha mẹ trở thành một thứ đạo hiếu đòi buộc hết mọi người. Ở Hy-lạp, xin được trích dẫn mẫu gương của hiền triết Socrate khuyên các con của mình phải bày tỏ tấm lòng hiếu thảo với mẹ của chúng, vì tình sâu nghĩa nặng của cha mẹ đối với mình (Xénophon, Les Mémorables, II, 2). Ở Việt Nam chúng ta, không ai không thuộc câu ca dao nầy: “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”.
 
      2. Thảo kính cha mẹ, đạo Thiên Chúa.
 
      Giới răn thảo kính cha mẹ không chỉ thuộc đạo tự nhiên, nhưng cũng còn chương trình của Đấng Tạo Hóa đối với con người. Cuộc sống gia đình ở Ít-ra-en được ghi khắc trong chiều kích siêu nhiên: không chỉ lưu truyền nòi gióng, mà còn truyền đạt từ thế hệ này đến thế hệ khác niềm tin của cha ông vào một Thiên Chúa duy nhất, Đấng đã tự mặc khải mình ra. Chính vị Thiên Chúa nầy “muốn cho con cái thảo kính cha và phục quyền mẹ”; chính Ngài chúc phúc cho con cái nào giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ của mình.
 
      “Kẻ kính cha sẽ được trường thọ”, đây là lời chúc phúc truyền thống nhất. Cuộc sống trường thọ như phần thưởng cho tấm lòng đạo hiếu đối với cha mẹ được đánh giá cao nhất vào thời kỳ những niềm hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được biết đến (đó là viễn cảnh niềm tin vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên).
 
      Còn ngạc nhiên hơn nữa đối với lời hứa “Kẻ thờ cha thì được thứ tha tội lỗi”, cũng như “người kính mẹ khác nào kẻ tích trữ kho tàng”, nghĩa là lập công tích đức để được Thiên Chúa thứ tha tội lỗi của mình. Cách nói nầy tương tự với câu cuối của đoạn trích hôm nay: “Vì việc hiếu nghĩa đối với cha sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con”.
 
      Trong Do thái giáo sau thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, người ta rất nhạy bén trước tội lỗi và bận lòng thanh luyện nội tâm. Hiền nhân Si-rác thuộc vào những thế hệ nầy: gẫm suy giáo huấn của các ngôn sứ. Đến phiên mình, ông ca tụng việc thực hành đức hạnh hơn việc tế tự thuần túy bên ngoài. Theo đường hướng nầy, ông khai triển rất xa và ở đây ông đánh giá việc thảo kính cha mẹ như hy tế xá tội. Tuy nhiên, chúng ta nhận ra ở đây một sự khác biệt: trong khi các ngôn sứ rất bận lòng đến ơn cứu độ của toàn thể dân chúng, thì các hiền nhân quan tâm nhiều hơn đến ơn cứu độ cá nhân.
 
      Cuối cùng chúng ta ghi nhận rằng hiền nhân Si-rác cẩn trọng trích dẫn bổn phận đối với cha và bổn phận đối với mẹ gần như song song với nhau. Phải nói thật rằng điều nầy rất hiếm trong Cựu Ước ở đó người cha thường chiếm vai trò gần như độc tôn.
 
      BÀI ĐỌC II (Cl 3: 12-21)
 
      Như thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô, thư gởi cho các tín hữu Cô-lô-sê đã được thánh Phao-lô viết trong khi thánh nhân bị giam cầm ở Rô-ma vào khoảng những năm 61-63 sau Công Nguyên, vì thế nội dung của hai bức thư nầy rất gần nhau.
 
1. Hoàn cảnh:
 
      Thành phố Cô-lô-sê miền Tiểu Á đã khai sinh một cộng đoàn Ki tô hữu. Cộng đoàn nầy được Epaphras, bạn đồng hành đồng thời cũng là môn đệ của thánh Phao-lô, thiết lập. Những sai lạc đạo lý, những biện luận về quyền năng của thiên thần, những thực hành khổ chế, những khuynh hướng Do thái giáo gây nguy hiểm cho đức tin của cộng đoàn non trẻ nầy. Thánh Phao-lô hiện đang bị giam cầm, nên không thể đến tận nơi được. Vì thế, thánh nhân gởi bức thư nầy cho các tín hữu Cô-lô-sê. Thánh nhân tập trung giáo huấn của mình vào Đức Ki tô và quy chiếu cuộc sống Ki-tô hữu vào điều cốt lõi: sống hiệp nhất với Đức Ki-tô, noi gương Đức Ki-tô, thực hành các nhân đức, đặc biệt là đức ái.
 
2. Nội dung:
 
      Phụng vụ đề nghị cho chúng ta đoạn trích của bức thư này và mời gọi chúng ta đọc nó trong ý hướng của ngày lễ hôm nay: đời sống gia đình: “Anh em hãy có lòng thương xót, nhân hậu, khiêm nhu, hiền từ và nhẫn nại. Hãy chịu đựng lẫn nhau và tha thứ cho nhau”.
 
      Đức ái Ki-tô giáo là nguồn mạch của sự hiệp nhất và bình an trong đời sống cộng đoàn, huống gì trong đời sống gia đình, ở đó tình yêu phải là mối dây liên kết tuyệt hảo. Theo thói quen của mình, thánh Phao-lô mời gọi tạ ơn và cầu nguyện, nhất là cầu nguyện chung: “Hãy đem hết lòng biết ơn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, những khúc thánh ca, do Chúa Thánh Thần linh hứng”, nghĩa là cầu nguyện tự phát.
 
      Đoạn văn hoàn tất với vài lời khuyên bảo đặc thù về bổn phận giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Thánh nhân khai triển những điều nầy trong thư gởi cho các tín hữu Ê-phê-sô 5: 21-32.
 
      TIN MỪNG (Lc 2: 22-40)
 
      Vào ngày lễ Thánh Gia, với đoạn Tin Mừng nầy, Giáo Hội tưởng niệm hai nghi thức được cử hành cùng một lúc trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem: lễ thanh tẩy Đức Ma-ri-a và lễ thánh hiến Đức Giê-su, con trai đầu lòng.
 
      Chung quanh con trẻ sáu tuần lễ nầy, chúng ta thấy Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se không chỉ họ “tuân theo Luật Chúa truyền”, nhưng họ còn ngạc nhiên bỡ ngỡ trước lời sấm của cụ già Si-mê-on về Hài Nhi. Điều nầy cho thấy thánh Giu-se đã nhận con trẻ nầy như đứa con ruột thịt của mình. Như vậy, thánh Lu-ca, vốn đã nhấn mạnh đức đồng trinh của Đức Ma-ria, không ngần ngại nói: “cha mẹ của Đức Giê-su”.
 
      Luật Mô-sê đòi buộc người mẹ, sau bốn mươi ngày sinh con trai và sau tám mươi ngày sinh con gái, một hy lễ thanh tẩy: một con chiên một năm tuổi, nhưng nếu người nghèo, một đôi chim gáy hay một cặp bồ câu non. Vì thế, của lễ của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se là của lễ của một gia đình nghèo.
 
      Lễ thánh hiến con trai đầu lòng là đòi buộc, nhưng không cần phải lặn lội xa xôi đem con lên Giê-ru-sa-lem để tiến dâng cho Chúa. Ở đây, thánh Lu-ca đề cao lòng đạo đức tuyệt vời của Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se.
 
      Vào giây phút Đức Giê-su, được trao ban hoàn toàn trong tay của con người và được tiến dâng lên cho Cha Ngài, Thánh Thần linh hứng cho hai nhân vật khả kính: cụ già Si-mê-on và bà ngôn sứ An-na, mặc khải sứ mạng của Hài Nhi nầy.
 
      1. Cụ già Si-mê-on.
 
      Cụ già Si-mê-on đang mong chờ “niềm an ủi của Ít-ra-en”, đây là tước hiệu chỉ Đấng Mê-si-a từ thời ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, tức là cuối thời lưu đày (Is 49: 13). Cụ nhận ra ở nơi Hài Nhi nầy Đấng Cứu Độ không chỉ của dân Ít-ra-en nhưng của muôn dân nữa. Mặc Khải nầy làm cho Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se ngạc nhiên và bỡ ngỡ. Bài thánh thi của cụ già Si-mê-on tiên báo về sứ mạng của Đức Giê-su sóng đôi với bài thánh thi của ông Da-ca-ri-a tiên báo sứ mạng của Gioan Tẩy giả. Thánh Lu-ca thiết lập một sự song đối giữa cuộc đời thơ ấu của hai con trẻ nầy.
 
      “Ông Si-mê-on chúc phúc cha hai ông bà”, nhưng chỉ hướng về một mình Đức Ma-ria và nói với chỉ một mình Mẹ, bởi vì thánh Giu-se qua đời sớm nên không thể làm chứng về cuộc đời công khai của Đức Giê-su. Cụ già Si-mê-on báo trước cho Đức Ma-ri-a, mẹ của Hài Nhi, số phận bi thương đang chờ đợi Mẹ: Mẹ sẽ đau khổ vì dân Ít-ra-en bị chia rẻ về Con của Mẹ: tin vào Ngài hay từ chối Ngài. Chúng ta có thể đọc thấy trong lời tiên báo nầy viễn cảnh núi Sọ. Mạch văn không đòi buộc điều nầy nhưng cũng không tuyệt đối loại bỏ.
 
      2. Bà ngôn sứ An-na.
 
      Còn Bà ngôn sứ An-na cảm tạ Thiên Chúa và lớn tiếng thông báo cho những ai mong chờ ngày Thiên Chúa giải phóng Giê-ru-sa-lem qua con trẻ nầy.
 
      Đây là sự ghi nhận mang đậm nét của thánh ký Lu-ca. Đối với Lu-ca, Giê-ru-sa-lem là trung tâm Mặc Khải. Dung mạo của hai ông bà cao tuổi nầy đại diện rất rõ nét nỗi mong chờ dài lâu của dân Ít-ra-en. Thế nên, đây là hai người tôi tớ vĩ đại của Thiên Chúa đến chứng thực rằng việc dân Ít-ra-en chuẩn bị chờ đón Đấng Mê-si-a đã đến hồi kết thúc. Họ được sánh ví như thời Cựu Ước đã đến hồi hoàn tất để nhường chỗ cho thời Tân Ước, kỷ nguyên Mê-si-a. Trong số bốn tác giả Tin Mừng, thánh Lu-ca là thánh ký nhấn mạnh nhiều nhất những giai đoạn cứu độ.
 
      3. Lời kết.
 
      Thánh Lu-ca kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay với đời sống ẩn dật của Đức Giê-su trong mái ấm gia đình Na-da-rét. Thánh ký ghi nhận rất ngắn gọn cuộc đời thơ ấu của Đức Giê-su: “Còn Hài Nhi, ngày càng lớn lên, thêm vững mạnh”. Lời nhận xét nầy được đặt song đối với lời nhận xét khác liên quan đến cuộc đời thơ ấu của Gioan Tẩy giả: “Cậu bé càng lớn lên thì tinh thần càng vững mạnh” (Lc1: 80) . Tuy nhiên, thánh ký còn nói thêm về Chúa Giê-su: “Đầy khôn ngoan, và hằng được ân nghĩa cùng Chúa”. Như vậy, Đức Giê-su thì vĩ đại hơn Gioan Tẩy giả ngay từ thời thơ ấu.

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập243
  • Hôm nay71,846
  • Tháng hiện tại810,377
  • Tổng lượt truy cập58,096,246
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây