Lễ Các Thánh Nam Nữ. Giải thích Lời Chúa.

Thứ hai - 29/10/2012 10:35

-

-
Vào ngày đại lễ Chư Thánh, Giáo Hội công bố đức tin của mình vào cuộc sống mai sau. Giáo Hội ca ngợi đoàn người đông đảo không tài nào đếm được, họ vui hưởng cuộc sống chan hòa bình an và ngập tràn ánh sáng bên cạnh Thiên Chúa.
CÁC THÁNH NAM NỮ

 
Vào ngày đại lễ Chư Thánh, Giáo Hội công bố đức tin của mình vào cuộc sống mai sau. Giáo Hội ca ngợi đoàn người đông đảo không tài nào đếm được, họ vui hưởng cuộc sống chan hòa bình an và ngập tràn ánh sáng bên cạnh Thiên Chúa. Đối với những ai đang lữ hành trên trần thế nầy, Giáo Hội đề nghị “các mối phúc thật” như chính lộ dẫn họ về cuộc sống đời đời. Ngày lễ Chư Thánh là ngày đại lễ của niềm hy vọng.
 
Kh 7: 2-4, 9-14
 
Bài đọc I, được trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan, miêu tả một đoàn người không kể siết cử hành phụng vụ hùng vĩ tràn đầy niềm vui và tạ ơn trước ngai Thiên Chúa.
 
1Ga 3: 1-3
 
Trong thư thứ nhất của mình, thánh Gioan nhắc nhở vận mệnh của người Ki-tô hữu: trở nên nghĩa tử của Thiên Chúa, họ được mời gọi nên đồng hình đồng dạng với Con Một của Ngài là Đức Giê-su Kitô, và vì thế, được dự phần vào vinh quang của Ngài.
 
Mt 5: 1-12
 
Trong Tin Mừng Mát-thêu, Đức Giê-su công bố “các mối phúc thật”, bản Hiến Chương Nước Trời.
 
BÀI ĐỌC I (Kh 7: 2-4, 9-14)
 
Bài đọc I được trích từ sách Khải Huyền của thánh Gioan miêu tả một đoàn người đông đúc khôn kể xiết vui hưởng nhan thánh Chúa và niềm hoan lạc thiên quốc. Lễ Chư Thánh được mừng trước Lễ Cầu Cho Các Tín Hữu Đã Qua Đời, cả hai hình thành nên bộ đôi diễn tả niềm hy vọng của người tín hữu.
 
Nhà thị kiến sách Khải Huyền diễn tả những xuất thần của mình bằng thể loại văn chương khải huyền. Thể loại văn chương nầy đã được tác giả sách Đa-ni-en khai mạc vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên. Tác giả này nhận nguồn cảm hứng từ các vị tiền nhiệm của mình, đặc biệt từ các thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en.
 
Tuy nhiên, các sách khải huyền của thế kỷ thứ hai và thứ nhất trước Công Nguyên (thể loại nầy nở rộ) và sách Khải Huyền của thánh Gioan vừa giống nhưng vừa khác. Cái khắc biệt cơ bản đó là, kỷ nguyên Mê-si-a đã được loan báo nay đã xảy ra. Thời Mê-si-a đã đi vào trong Lịch Sử; từ đây, kỷ nguyên Mê-si-a soi sáng kỷ nguyên cánh chung. Trong sách Khải Huyền của thánh Gioan, một dung mạo nổi bật: dung mạo Con Chiên, hình ảnh của Đức Kitô. Con Chiên vẫn mang những vết thương hy tế của mình, nhưng là Con Chiên khải hoàn. Như vậy, những viễn cảnh khai mở cho niềm hy vọng không còn là những giả sử: mọi lời hứa đã được thực hiện.
 
Sách Đa-ni-en được viết vào thời kỳ bách hại của vua An-ti-ô-khô IV Ê-pi-pha-nê, vào thế kỷ thứ hai trước Công Nguyên, để an ủi dân Do thái trong gian nan thử thách. Cũng vậy, sách Khải Huyền của thánh Gioan được biên soạn vào thời kỳ bách hại của hoàng đế Rô-ma, Domitien, cuối thế kỷ thứ nhất (91-96), vài phần có thể được đặt vào niên biểu của cuộc bách hại dưới thời hoàng đế Nê-ron (64-68). Sách này cũng nhằm mục đích tương tự: gởi đến cho các Kitô hữu sứ điệp chứa chan hy vọng, cho họ thoáng thấy niềm hoan lạc thiên quốc, vì niềm hy vọng nầy thật đáng phải chịu những đau khổ kể cả sự chết.
 
Sách Khải Huyền là một cuốn sách được mã hóa, nhờ đó các tín hữu bị bách hại có thể đọc và chuyền tay nhau mà không sợ những kẻ bách hại mình đọc và hiểu được. Rô-ma không bao giờ được gọi đích danh, nhưng dưới biệt hiệu Ba-by-lon hay Con Thú, hay Con Điếm hoặc số 666 (con số 666 nầy muốn nói lên sự bất toàn tận căn, đối lập với con số 7). Nhưng cũng vì thế, chúng ta, những thế hệ cách xa sau này, không thể nào giải mã tất cả. Tác phẩm tiên báo cuộc sụp đổ đế quốc Rô-ma, cuộc khải hoàn của Giáo Hội và mô tả những viễn cảnh thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc.
 
Bản văn mà chúng ta đọc hôm nay trình bày hai viễn cảnh liên tiếp nhau: viễn cảnh thứ nhất xảy ra trên mặt đất, gợi ra Giáo Hội đang chịu đau khổ và ơn cứu độ của những người công chính ở giữa lòng những gian truân nầy; viễn cảnh thứ hai là phụng vụ tạ ơn ở trên trời được cử hành bởi một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc đủ mọi dân, mọi nước.
 
1. THỊ KIẾN THỨ NHẤT: Ở DƯỚI THẾ (7: 2-4):
 
Để hiểu ý nghĩa thị kiến thứ nhất nầy, phải đặt nó trở lại vào trong bối cảnh lịch sử của nó.
 
1.1- Giáo Hội chịu đau khổ:
 
Những Kitô hữu bị bách hại tự hỏi là những nỗi khốn khổ nầy sẽ kéo dài bao lâu? Khi nào những kẻ bách hại bị trừng trị? Nhà thị kiến rõ ràng nêu lên những vấn đề nầy, và trả lời trong chương 6: 9-11, trước đoạn trích của chúng ta: “Tôi thấy dưới bàn thờ, linh hồn của những người đã bị giết vì đã rao giảng Lời Thiên Chúa và đã làm chứng. Họ lớn tiếng kêu: “Lạy Cha chí thánh và chân thật, cho đến bao giờ Ngài còn trì hoãn, không xét xử và không bắt những người sống trên mặt đất phải nền nợ máu chúng con?” Bấy giờ mỗi người trong số họ được lãnh một áo trắng; và có lời phán bảo họ cứ nghỉ yên một thời gian ngắn nữ, chờ cho đủ số những người cũng là tôi tớ Thiên Chúa và là anh em của họ, sắp bị giết như họ”.
 
Như vậy, những Kitô hữu được báo trước: thời kỳ bách hại không chấm dứt. Nhưng giờ trừng phạt của những ác nhân sẽ đến. Những tai ương khủng khiếp được loan báo trong viễn cảnh khải huyền về cơn thịnh nộ của Thiên Chúa vào thời cánh chung: chiến tranh, nạn đói, ôn dịch, động đất xảy đến trước khi Thiên Chúa xét xử.
 
1.2- Ấn tín:
 
Tuy nhiên, các Kitô hữu không phải lo lắng, vì Con Chiên cứu độ ngự trên ngai xét xử muôn dân. Những người công chính sẽ được đóng ấn của Ngài. “Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên”. Đây là biểu tượng kinh điển: chính từ phía mặt trời mọc nầy mà ánh sáng và sự sống đến, trong khi phía Tây là dấu chỉ của bóng tối và sự chết.
 
Hình tượng “dấu ấn” được mượn từ Ed 9: 4: “Hãy rảo khắp thành, khắp Giê-ru-sa-lem. Hãy ghi dấu chữ thập trên trán những người đang rên siết khóc than về mọi điều ghê tởm đang xảy ra trong khắp thành”. Xuất xứ của đề tài nầy còn xa hơn nữa đến tận sách Xuất Hành, trong đó sứ thần hủy diệt, lãnh sứ mạng gieo rắc các tai ương khắp xứ Ai-cập, trừ các nhà của dân Do thái, được bôi máu con chiên vượt qua trên khung cửa.
 
Ấn tín được ghi trên trán các Kitô hữu thì khác, thuộc thực tại tinh thần. Thánh Gioan dùng từ “ấn tín” theo tiếng Hy-lạp mà không xác định. Chắc chắn đọc giả của ông biết ấn tín cốt là gì: thuật ngữ nầy được dùng để chỉ phép Rửa ngay từ thế kỷ thứ hai sau Công Nguyên. Ý nghĩa của nó xuất hiện rồi trong thư thứ hai của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô (2Cr 1: 21-22) và trong mạch văn Ba Ngôi.
 
1.3- Ý nghĩa của những biểu tượng khác:
 
Như vậy, qua mật mã và các biểu tượng nầy, những Kitô hữu bị bách hại được mời gọi nhớ lại rằng họ được Thiên Chúa đóng ấn, vì thế họ thuộc về gia đình đông đúc được bảo đảm ơn cứu độ đời đời.
 
Con số những người được đóng ấn là 144.000 người. Rõ ràng 144.000 là con số biểu tượng. 144 là tổng số của 12 x 12, con số viên mãn, được nhân lên gấp ngàn lần: 144.000, con số khuếch trương vô tận. 12 bộ tộc là 12 bộ tộc của dân Ít-ra-en mới, 12 tông đồ tiếp tục sự nghiệp của 12 người con Gia-cóp / Ít-ra-en.
 
Trong viễn cảnh của mình, truyền thống khải huyền có thói quen lồng vào với nhau quá khứ, hiện tại và tương lai. Ở đây Giáo Hội, đương đầu với “quyền phá hoại đất trời”, đó là Giáo Hội muôn đời, đối mặt với biết bao gian nan thử thách, nhưng được Thiên Chúa bảo vệ và che chở.
 
2. THỊ KIẾN THỨ HAI: Ở TRÊN TRỜI (7: 9-14):
 
Thị kiến thứ hai là việc tham dự trước thành thánh Giê-ru-sa-lem thiên quốc, được mô tả ở phần cuối sách. Sau khi đã loan báo những tai ương sắp xảy đến, ngay tự bây giờ cần phải mang đến một sứ điệp chứa chan hy vọng.
 
2.1- Đoàn người khải hoàn:
 
Một đoàn người thật đông khôn kể xiết của thị kiến thứ hai nầy phải chăng cũng là đoàn người được chỉ ra một cách biểu tượng bởi con số 144.000, hay nhà thị kiến đồng thời đã thoáng thấy một đoàn người công chính, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước mọi ngôn ngữ, đã thuộc về thân thể mầu nhiệm của Giáo Hội, dù họ không biết? Dù thế nào, “chiều kích ơn cứu độ phổ quát” được hàm chứa trong việc mô tả nầy, như trước đây: “Ngài đã bị giết và đã lấy máu đào chuộc về cho Thiên Chúa muôn người thuộc mọi chi tộc và ngôn ngữ, thuộc mọi nước, mọi dân” (5: 9-10). Đây không phải là lời hứa được ban cho tổ phụ Áp-ra-ham rằng hậu duệ của ông sẽ đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển sao (St 15: 5; 22: 17)?
 
2.2- Phụng vụ thiên quốc:
 
Chỗ vinh dự được ban cho những ai đã được phúc tử đạo: “Họ đứng trước ngai Thiên Chúa và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’”. “Mình mặc chiếc áo trắng” của sự vô tội và vinh quang; “tay cầm nhành lá thiên tuế” của sự khải hoàn; “họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao”, bởi vì “họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên”.
 
Phụng vụ thiên quốc nầy rất trang trọng. Những người được tuyển chọn công bố rằng ơn cứu độ của họ phát xuất từ Thiên Chúa và Con Chiên. Các thiên thần và những nhân vật khác đều cung kính phủ phục và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô bằng bảy lời tán tụng: chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh (chúng ta gặp thấy bài Vinh Tụng Ca tương tự ở 5: 12).
 
Chúng ta ghi nhận rằng Thiên Chúa không được miêu tả gì cả; chỉ duy “ngai” chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa, được bao quanh bởi triều thần gồm các thiên thần, hai mươi bốn Kỳ Mục và bốn Con Vật.
 
2.3- Các Kỳ Mục:
 
Ở chương 4, hai mươi bốn Kỳ Mục được trình bày đang ngồi trên các ngai, mình mặc áo trắng, đầu đội triều thiên vàng. Họ có vai trò vừa tư tế vừa vương đế. Họ ngồi bên cạnh ngai Thiên Chúa. Đây không là thiên thần nhưng là những con người. Ở Ít-ra-en, tước hiệu Kỳ Mục được ban cho các thủ lãnh của dân (70 Kỳ Mục bên cạnh ông Mô-sê), cho những vị hữu trách trước các hội đường và cho một phần thành viên của Đại Hội Đồng. Trong Giáo Hội tiên khởi, đó cũng là tước hiệu dành cho các người chịu trách nhiệm trước các cộng đoàn Kitô hữu.
 
2.4- Bốn Con Vật:
 
Bốn Con Vật kỳ bí nầy cũng đã được miêu tả ở chương 4: “Con Vật thứ nhất giống như sư tử, Con Vật thứ hai giống như bò tơ, Con Vật thứ ba có mặt như mặt người, Con Vật thứ bốn giống như đại bàng đang bay. Bốn Con Vật ấy, mỗi con có sáu cánh, chung quanh và bên trong đầy những mắt” (4: 7-8). Những dung mạo nầy được gợi hứng từ thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en (Ed 1: 5-21). Xuất xứ của chúng là từ Ba-by-lon. Bốn bức tượng của bốn con vật thần thoại canh giữ cung điện Ba-by-lon. Đó là các Karibu (ngữ căn của từ “chérubin”), các con vật đầu người, mình sư tử, chân bò rừng và cánh đại bàng, bốn biểu tượng của sức mạnh và quyền năng. Trong thị kiến của ngôn sứ Ê-dê-ki-en, những con vật lai tạp nầy được thắng vào xe của Đức Chúa, diễn tả sự siêu việt của Thiên Chúa Ít-ra-en.
 
Bốn Con Vật của sách Khải Huyền lấy lại bốn biểu tuợng, được phân phối trên bốn con vật tách biệt. Chúng cũng được gộp vào trong một thị kiến về Thiên Chúa ngự trên ngai trong vinh quang của Ngài, nhưng ý nghĩa của chúng thì hơi khác. Bốn con vật gợi lên bốn phương trời, nói chính xác hơn, số bốn là số của vũ trụ (biểu tượng của nghệ thuật và kiến trúc tôn giáo). Xem ra chúng biểu thị sự vĩ đại, sức mạnh, sự hoàn thiện của công trình sáng tạo và sự có mặt khắp nơi của Thiên Chúa trong công trình của Ngài (mắt của chúng không kể xiết); chúng được đồng hóa với các thiên thần, ngày đêm không ngừng ca ngợi kỳ công sáng tạo của Thiên Chúa. Thị kiến được hoàn tất với việc gợi lên niềm hoan lạc của những người được tuyển chọn: “Và Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ”.
 
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 1-3)
 
Đoạn văn nầy được trích từ thư thứ nhất của thánh Gioan tập trung vào một chủ đề duy nhất: “nghĩa tử của Thiên Chúa”. Người Kitô là con cái của Thiên Chúa ngay từ bây giờ, nhờ tình yêu của Chúa Cha, nhưng nghĩa tử nầy sẽ trở nên viên mãn chỉ khi chúng ta nên giống với Đức Kitô vào ngày quang lâm của Ngài.
 
1. Nghĩa tử của Thiên Chúa.
 
Thiên Chúa là tình yêu, đó là chủ đề hàng đầu của thần học Gioan. Thánh Gioan ngây ngất trước điều kỳ diệu nầy: Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi chúng ta được gọi là con cái của Ngài. Đây không là một tước hiệu mà Ngài ban thưởng cho chúng ta, nhưng một thực tại: “thực sự chúng ta là con Thiên Chúa”. Theo văn hóa Sê-mít, danh xưng diễn tả chân lý sâu xa của con người: như vậy Chúa Cha yêu thương chúng ta đến nổi liên kết chúng ta với Con Một của Ngài khi Ngài gọi chúng ta là “con của Ngài”. Phẩm chất nầy làm cho chúng ta khác với thế gian: đó là lý do tại sao “thế gian không nhận biết chúng ta”. Những lời nầy xem ra vang dội lời của Đức Giê-su nói với các môn đệ Ngài, được tường thuật chính xác trong Tin Mừng Gioan: “Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em” (Ga 15: 19).
 
Toàn bộ thư nầy được xây dựng theo phép đối ngẫu. Cuộc sống Kitô hữu đối lập với cuộc sống của những người không tin hay những người theo lạc thuyết. Ở đây, phản đề bao phủ một phạm vi rộng lớn: thế gian, theo nghĩa tiêu cực, là thế giới tội lỗi “đã không nhận biết Thiên Chúa”.
 
2. Việc biến đổi tương lai:
 
Đoạn trích thư nầy có thể được đặt nhan đề: “từ phép rửa tội đến việc biến đổi”. Chúng ta được biến đổi rồi bởi sự sống làm con Thiên Chúa của chúng ta, nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu tiên. Việc chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa chỉ được thành toàn khi mà chúng ta nên giống như Con Một của Ngài. Điều này sẽ xảy ra vào thời cánh chung. Bản văn như muốn nói rằng chiêm ngắm Con Một Thiên Chúa trong vinh quang sẽ biến đổi chúng ta. Đó không là ý tưởng vì việc chúng ta được thay hình đổi dạng được ươm mầm rồi ở nơi phẩm chất con cái Thiên Chúa của chúng ta.
 
Lời khẳng định của vị tông đồ là một lời khẳng định của đức tin, nhưng cũng dựa trên kinh nghiệm: thánh Gioan đã là chứng nhân của cuộc Biến Hình, xem ra được ám chỉ trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan: “Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
 
Chúng ta cũng gặp thấy sự thay hình đổi dạng trong tương lai nầy trong thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Còn chúng ta, quê hương của chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giê-su Kitô từ trời xuống cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3: 20-21).
 
Trong ánh sáng vinh quang của ngày lễ Chư Thánh, bản văn này gợi lên sự biến đổi hình dạng tương lai của chúng ta: “Chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy”. Niềm hy vọng này làm cho chúng ta tinh tuyền vì nó thúc đẩy chúng ta mỗi ngày mỗi nên đồng hình đồng dạng với Đức Ki-tô hơn nữa.
 
TIN MỪNG (Mt 5: 1-12)
 
Tin Mừng hôm nay được trích từ bài diễn từ đầu tiên trong loạt năm bài diễn từ hình thành nên cấu trúc của Tin Mừng Mát-thêu. Bài diễn từ đầu tiên nầy bao gồm các chương 5 đến 7 và được gọi là “Bài Giảng Trên Núi”, vì ngay từ đầu, diễn từ nầy được định vị trong bối cảnh: “trên núi” (5: 1-2). Núi là nơi thuận lợi cho những mặc khải thần linh. Chính trên núi Xi-nai, Thiên Chúa ban Lề Luật cho dân Ngài qua ông Mô-sê (x. Xh 24: 1-2, 9). Chính cũng trên núi Ga-li-lê, Chúa Giê-su ban “Các Mối Phúc” cho dân mới của Ngài, không qua trung gian và bằng chính uy quyền của Ngài. Nhưng Các Mối Phúc không là Lề luật, càng không phải là những huấn lệnh: Ngài đưa ra những cách sống mở lối vào Nước Trời, vì chúng cho phép họ cư xử như con cái đích thật của Thiên Chúa.

Thính giả của Đức Giê-su bao gồm “đám đông” (5: 1), họ sẽ tái xuất hiện ở cuối bài diễn từ (Mt 7: 28) để tạo thành thể đóng khung cho toàn bộ bài diễn từ; và “các môn đệ của Ngài”, diễn ngữ mà Mát-thêu dùng ở đây lần đầu tiên trong Tin Mừng của mình. Vì thế, sứ điệp được gởi đến cho tất cả mọi người, đặc biệt hơn cho các môn đệ: “Thấy dân chúng từ khắp nơi kéo về đông đảo, Đức Giê-su lên một ngọn núi. Khi Người ngối xuống, thì các môn đệ đến gần bên. Người lên tiếng dạy họ”. Quả thật, con đường thì hẹp; tuy nhiên nó mở rộng cho tất cả mọi người, cho đám đông thân cận và cho đám đông mênh mông, vô danh, tản mác trong thời gian và không gian, đám đông của những ai, dù không biết Ngài, đều có thể thuộc về Nước Trời, nếu đức hạnh của họ phù hợp với sứ điệp nầy, phù hợp với khoản Giao Ước mới của Thiên Chúa với nhân loại. Qua Các Mối Phúc, Đức Giê-su đã mở rộng “Kitô giáo”.
 
Thật ra, danh sách của những hạng người được chúc phúc ở đây thì không hoàn toàn mới mẽ; nó đã được giáo huấn ngôn sứ và minh triết Cựu Ước chuẩn bị dài lâu. Những người nghèo, khiêm hạ, công chính, thanh sạch, … đã được các Thánh Vịnh tán dương. Đức Giê-su minh nhiên quy chiếu đến những bản văn Cựu Ước nầy. Nhưng những đức hạnh hoàn thiện được phác họa ở đây xem ra có thể chỉ được thực hiện vào thời đại Mê-si-a. Đức Giê-su kiện toàn những đức hạnh này ở nơi chính con người của Ngài. Khi công bố những mối phúc nầy, Chúa Giê-su mặc khải cho chúng ta rằng hạnh phúc đích thật hiện ở trong tầm tay của chúng ta, bởi vì Ngài là Thiên Chúa, cội nguồn của tất cả những gì có thể làm cho chúng ta mãn nguyện.
 
1- “Phúc thay ai có tấm lòng nghèo khó…” :
 
Thánh Lu-ca nói một cách giản dị: “Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khổ” (Lc 6: 20). Khi viết : « Phúc thay ai có tấm lòng nghèo khó », thánh Mát-thêu mở rộng viễn cảnh cho tất cả những ai có tấm lòng nghèo khó, phù hợp với chiều hướng nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su muốn. Sự nghèo khó không được ca ngợi ở nơi chính nó, bởi vì sự nghèo khó có thể do sự biếng nhác, ăn không ngồi rồi, nhưng ở nơi sự giải thoát khỏi mọi gắn bó với của cải trần thế và mở rộng lòng mình ra đón nhận sự giàu có tinh thần.
 
Cuối cùng, khía cạnh Mê-si-a của mối phúc nầy thật hiển nhiên: Đức Giê-su sinh ra trong cảnh nghèo hèn và chết trong sự trần trụi để là quà tặng của Thiên Chúa được trao ban trọn vẹn cho con người. Đối với những ai lắng nghe Ngài và từ bỏ mọi sự mà theo Ngài, Ngài sẽ sai họ ra đi trên mọi nẽo đường thế giới, không tiền bạc, không bao bị, hoàn toàn trơ trụi, nhưng giàu có tận mức sứ điệp tinh thần mà họ công bố.
 
2- “Phúc thay ai hiền lành…”:
 
Mối phúc nầy được gợi hứng từ Thánh Vịnh 37, Thánh Vịnh này gợi ra số phận khác nhau giữa những người công chính và quân gian ác: “Ít lâu nữa ác nhân sẽ chẳng còn, đến chỗ xưa cũng không tìm thấy hắn. Còn kẻ nghèo hèn được đất hứa làm gia nghiệp và vui hưởng cảnh an lạc chan hòa” (Tv 37: 10-11).
 
“Đất Hứa” là đất Ca-na-an. Chủ đề nầy vọng lên đến lời hứa của Thiên Chúa với tổ phụ Áp-ra-ham (St 15: 7; 28: 4), được triển khai phong phú trong sách Đệ Nhị Luật (Đnl 1: 8, 39; 4: 1, 5, 14…), nhưng mang lấy sắc thái cánh chung trong sách I-sai-a (Is 57: 13; 60: 21; 65: 9), và sẽ vang dội trong sách Khải Huyền, ở đó cốt là thành thánh Giê-ru-sa-lem trên trời (Kh 21: 2). Trong Tin Mừng Mát-thêu, “Đất Hứa” không còn là đất Ca-na-an nữa, nhưng mang một ý nghĩa tinh thần như trong Các Mối Phúc khác. Chủ đề “thừa hưởng” thường trở đi trở lại trong Tân Ước: chung chung, người ta thích cách nói “thừa hưởng Nước Trời” (Mt 25: 34; 1Cr 6: 9-10…) “thừa hưởng sự sống đời đời” (Mt 19: 29; Mc 10: 27; Lc 10: 25…) hơn là “thừa hưởng đất làm gia nghiệp”.
 
Đức tính hiền lành được nêu lên ở đây là một sự hiền lành không nhu nhược: đó cũng là sự hiền lành của Đức Kitô, mà thánh Mát-thêu nhấn mạnh nhiều lần: “Hãy học với tôi, vì tôi hiền lành và khiêm nhường trong lòng” (Mt 11: 29). Và trong chương 12 của mình, thánh Mát-thêu nhắc lại cung cách hiền lành của “Người Tôi Tớ”, dung mạo này được hiện thực nơi Đức Giê-su.
 
3- “Phúc thay ai sầu khổ…”:
 
Trong Tin Mừng Mát-thêu, mạch văn chung của Các Mối Phúc có khuynh hướng thấy ở nơi sự sầu khổ sắc thái tinh thần. Xem ra thật khó xác định đối tượng của nỗi sầu muộn khóc than nầy.
 
Đây là Mối Phúc mâu thuẫn nhất trong Các Mối Phúc, nhưng có thể cũng mang chiều kích Mê-si-a nhất. Trải qua tất cả những gian nan thử thách của mình, dân Ít-ra-en đã luôn luôn trông chờ được Thiên Chúa ủi an. Trong truyền thống Do thái, việc Đấng Mê-si-a đến được gọi là “niềm an ủi của Ít-ra-en”, trong Tin Mừng, cụ già Si-mê-on cũng mong chờ và gặp thấy “niềm an ủi của Ít-ra-en” ở nơi con trẻ Giê-su.
 
Không thể chối cải, Đức Giê-su là Đấng an ủi những người nghèo khó, đau khổ, bệnh hoạn tật nguyền: Ngài chữa lành, nâng dậy, phục sinh họ: “Tất cả những ai vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11: 28). Cuối cùng, Ngài dâng hiến cho những ai sầu khổ một niềm ủi an tuyệt mức khi chính Ngài dự phần vào những cơn hấp hối khủng khiếp của cái chết.
 
Ngài không đề nghị hủy bỏ sự đau khổ, nhưng rút ra từ đó một giá trị vượt qua nó, nâng cao nó và có thể biến nó thành nguồn vui. Niềm vui hiện tại – khó đạt được – được bổ túc bởi viễn cảnh của niềm vui tương lai, trong Nước Trời: “Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh 21: 3).
 
Tuy nhiên, không nên ngộ nhận viễn cảnh của thánh Mát-thêu: tác giả Tin Mừng nầy rất quan tâm đến chiều kích tinh thần của Các Mối Phúc. Thánh ký chắc chắn chủ yếu nhắm đến nỗi sầu muộn của các tín hữu đối mặt với thực tại trong đó sự ác chiến thắng trên những ý định của Thiên Chúa. Trên hết, Đức Giê-su hoàn lại niềm hy vọng cho những người công chính và đảm bảo cho họ sự chiến thắng tối hậu trên sự ác và sự chết.
 
4- “Phúc thay ai đói khát sự công chính…”:
 
Thánh Lu-ca viết: “Phúc cho anh em là những kẻ bây giờ đang phải đói, vì Thiên Chúa sẽ cho anh em được no thỏa” (Lc 6: 21), nghĩa là, sẽ xảy ra một sự đảo lộn những hoàn cảnh trong Nước Chúa. Thánh Mát-thêu, như trước đây, tinh thần hóa Mối Phúc nầy: “Phúc cho ai đói khát sự công chính”.
 
Chữ “công chính” mà Đức Giê-su công bố, chất nặng lịch sử Kinh Thánh nên không thể được hiểu thuần túy theo nét nghĩa thông thường hiện nay về sự công bình trần thế. Chắc chắn sự công bình trần thế hàm chứa ở đây, nhưng rất gián tiếp. Người công chính trong Cựu Ước và trong Tin Mừng (cụ già Si-mê-on, thánh Giu-se, vân vân) là một con người mà cách sống của họ luôn luôn phù hợp với thánh ý của Thiên Chúa. Đó là lý tưởng hoàn thiện mà một người đạo hạnh nhắm đến. Đức “công chính” chính là lý tưởng nầy. Vì thế, chữ “thánh thiện” là từ thích hợp nhất để diễn tả đức công chính. Đức Giê-su định vị đức công chính nầy như tiếp nối nhưng vượt qua đức công chính của Lề Luật: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng vào Nước Trời” (Mt 5: 20).
 
Bởi vì sự thánh thiện của những “người công chính” đích thật theo hình ảnh sự công chính của Thiên Chúa, nên đây là một nhân đức siêu việt, nó vốn nội tại trong cõi thâm sâu của đời sống. Những ai hết lòng hết dạ khao khát nhân đức nầy, sẽ được mãn nguyện– trên bình diện tinh thần.
 
5- “Phúc thay ai xót thương người…”:
 
Trong Cựu Ước, lòng xót thương thường được liên kết với đức công chính (theo nghĩa pháp lý). Quả thật, chính nhờ lòng xót thương mà tình yêu và sự công chính gặp gỡ nhau; nó là một khía cạnh của tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa đặc biệt đối với tội nhân. Ít-ra-en đã thụ hưởng tấm lòng nhân hậu nầy nhiều lần trong suốt lịch sử của mình và đã ca ngợi Đức Chúa là “Thiên Chúa giàu lòng xót thương”.
 
Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su khai triển Mối Phúc nầy: “Anh em hãy có lòng nhân từ, như Cha anh em là Đấng nhân từ. Anh em đừng xét đoán, thì anh em sẽ không bị Thiên Chúa xét đoán. Anh em đừng lên án, thì không bị Thiên Chúa lên án. Anh em hãy tha thứ, thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ…Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6: 36-38).
 
6- “Phúc thay ai có tấm lòng thanh sạch…”:
 
Cách diễn tả: “tấm lòng thanh sạch” là thành ngữ Kinh Thánh. “Tấm lòng thanh sạch” đối lập với sự thanh sạch nghi thức, hoàn toàn bên ngoài, không thể mang lại sự thanh sạch bên trong. Các Thánh Vịnh ca ngợi “kẻ tay sạch lòng thanh” (Tv 24); “Thiên Chúa nhân hậu biết là dường nào …với những kẻ có lòng trong sạch!” (Tv 73). Trong lời cầu nguyện của mình, các tín hữu kêu cầu Thiên Chúa “tạo cho con một tấm lòng trong trắng” (Tv 51).
 
“Tấm lòng”, theo ngôn ngữ Híp-ri, chỉ chiều kích sâu thẳm của con người. Chúa Giê-su lấy lại cách diễn tả nầy vì nó nêu bật nét đặc trưng của chiều kích nội tâm hóa luật luân lý. Sau nầy, Ngài quở trách những người Pha-ri-sêu chỉ “rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những gian ác” (Mt 9: 6; 23: 25).
 
7- “Hạnh phúc thay những người kiến tạo hòa bình…”:
 
Mối Phúc nầy mang một chiều kích Mê-si-a. “Vị vua công chính” đã được ngôn sứ I-sai-a loan báo là “Hoàng Tử Bình An” (Is 9: 6.). Thật vậy, hòa bình và công lý xã hội được gắn bó mật thiết với nhau trong Cựu Ước. Mối Phúc nầy đích thật là lời mời gọi gởi đến con người để mời gọi họ hãy làm cho công lý ngự trị giữa họ.
 
Theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a sẽ tái xuất hiện để chuẩn bị cho việc Đấng Mê-si-a ngự đến qua sứ mạng hòa giải: “Nầy Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi…Nó sẽ đưa tấm lòng cha ông trở lại với con cháu, và đưa tấm lòng con cháu trở lại với cha ông.” (Ml 3: 23-24).
Ngay trước thời Đức Kitô, các kinh sư đã đề ra những cử chỉ giao hòa trong gia đình, giữa bà con láng giềng…Đức Giê-su đòi hỏi phải hòa giải ngay cả trước khi dâng của lễ lên Thiên Chúa: “Vậy nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người anh em đang bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5: 24).
 
Chúa Giê-su đã để lại cho các tông đồ của Ngài “Bình An của Ngài”, vả lại, bình an nầy được định vị trong dòng chảy liên tục của tình yêu. Theo bước chân của Ngài, những người kiến tạo hòa bình sẽ được gọi “con Thiên Chúa” như Ngài.
 
8- “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính…”
 
Mối phúc thứ nhất và mối phúc thứ tám loan báo cho chúng ta rằng Nước Trời hiện diện rồi: “Vì Nước Trời của họ” (5: 3 và 10), trong khi sáu mối phúc khác, nằm ở giữa thể loại đóng khung nầy, vẫn còn là lời hứa trong tương lai: “Vì họ sẽ được…”. Sự căng thẳng giữa hiện thực và lời hứa, giữa hiện tại và tương lai, xuất hiện ngay từ đầu, ở giữa lòng sự thành tựu. Nó bày tỏ vừa tính dứt khoát vừa tính lịch sử của Vương Quốc nầy, Vương Quốc đang trương rộng ra trên toàn thế giới. Sự căng thẳng nầy bày tỏ điều mà chúng ta gọi chiều kích “cánh chung” của Nước Trời.
 
9- “Phúc thay anh em khi vì Thầy….”:
 
Ở Mối Phúc thứ chín này (5: 11), bài diễn từ đột nhiên chuyển qua ngôi thứ hai số nhiều: “Phúc thay anh em…”, thay vì ngôi thứ ba số ít: “Phúc thay ai…” như các mối phúc trước đó. Trong Tin Mừng Mát-thêu, Mối Phúc thứ tám và Mối Phúc thứ chín đều ca ngợi những người bị bách hại. Trong khi Mối Phúc thứ tám mang chiều kích phổ quát, được gởi đến với toàn thể nhân loại: “Phúc thay ai bị bách hại vì sự công chính”, thì Mối Phúc thứ chín được ngỏ lời trực tiếp với các môn đệ: “Phúc thay anh em khi "vì Thầy" mà bị người ta sĩ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa”.
 
Mối Phúc thứ chín đóng vai trò hiện tại hóa và cụ thể hóa Mối Phúc thứ tám vào trong hoàn cảnh của các môn đệ như một sự chuyển tiếp từ lý tưởng được đề nghị: “vì sự công chính” đến thực tại cụ thể được cảm thấy và được sống: “vì Thầy”. Ở vào giây phút các môn đệ bị bách hại và bị giết chết, nếu họ chấp nhận đặt mối liên hệ trực tiếp với Đấng công bố Các Mối Phúc nầy, họ có thể khám phá rằng Mối Phúc này được thành tựu ở nơi họ. Vào giây phút người môn đệ cảm thấy niềm vui được liên kết mật thiết với cuộc Tử Nạn của Đức Kitô, người ấy nhận thức rằng Nước Trời thực sự đã đến. Cũng thế, phần thưởng lớn lao dành cho họ là “ở trên trời” (5: 12). Phần thưởng nầy, nói một cách chính xác, không là bất cứ cái gì khác ngoài hiện thực hóa sự thành tựu mà Đức Giê-su mang đến, Đấng đưa họ vào “trong Nước Trời,” nghĩa là, vào trong thực tại của Chúa Cha ở trên trời.
 
Như vậy, Mối Phúc thứ chín thăng hoa Các Mối Phúc khác. Các nhà thần học nhấn mạnh tính chất Kitô học của Mối Phúc thứ chín nầy: ai dám hứa phần thưởng Nước Trời cho những người phải chịu đau khổ “vì mình,” nếu không là Đấng có thể sánh ngang bằng với Thiên Chúa?
 
Chúa Giê-su đã nhiều lần báo trước cho các môn đệ mình về những bách hại mà họ sẽ phải chịu. Vào lúc thánh Mát-thêu soạn thảo Tin Mừng của mình, những lời báo trước nầy đã trở thành những thực tại khắc nghiệt. Giáo Hội Pa-lét-tin chịu những cuộc công kích liên tục từ phía những người Do thái nhiệt thành với luật cũ, họ xem những người cải đạo Kitô như những kẻ bội giáo. Rồi, thánh Tê-pha-nô bị một đám đông giận dữ ném đá cho đến chết, thánh Gia-cô-bê, anh của thánh Gioan Tin Mừng, bị xử trảm vào năm 44. Thánh Phao-lô, thánh Ba-na-ba và những người bạn đồng hành của họ bị truy bắt, đánh đập, giam tù…Tiếp đó là những cuộc bách hại từ phía chính quyền dân sự Rô-ma. Nhưng sách Công Vụ nói với chúng ta rằng các tông đồ, dù bị bách hại như thế, “lòng hân hoan bởi được coi là xứng đáng chịu khổ nhục vì danh Đức Kitô” (Cv 5: 41).
 
CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI
 
Kể từ thế kỷ thứ năm, các thánh lễ  cầu cho các tín hữu qua đời đã được chứng thực rồi. Vào cuối thế kỷ thứ mười, năm 998, Đan Viện Phụ tu viện Cluny là thánh Ô-đi-lô ấn định ngày lễ này vào ngày 2 tháng 11 hằng năm để đặc biệt tưởng nhớ những người trong dòng và các ân nhân của dòng đã qua đời, một ngày sau lễ Mừng Kính Các Thánh Nam Nữ. Lễ này được phổ biến nhanh chóng khắp toàn thể Giáo Hội. Hai ngày lễ song đôi này đặt các thánh nam nữ và những tín hữu qua đời vào trong cùng ánh sáng. Người Ki-tô hữu chủ ý phối hợp hai ngày lễ để tưởng nhớ và cầu nguyện cho những thân nhân đã qua đời và  thăm viếng các nghĩa địa.
 
Kn 2: 1…3: 9
 
Sách Khôn Ngoan khẳng định rõ nét nhất số phận bất tử và hạnh phúc của những người công chính: họ được hưởng một cuộc sống bình an và mật thiết với Thiên Chúa; họ sẽ được tôn vinh vào ngày Chung Thẩm.
 
1Ga 3: 14-20
 
Thư thứ nhất của thánh Gioan vạch cho chúng ta một lộ trình từ cõi chết bước vào cõi sống, đó là thực thi đức ái cho đến mức hiến mạng sống mình vì anh em theo gương Chúa Giê-su.
 
Lc 12: 35-45
 
Tin Mừng hôm mạc khải một chi tiết đáng kinh ngạc. Thiên Chúa sẽ tiếp đón những tôi tớ trung tín của Ngài ngoài sức tưởng tượng của con người: Ngài đích thân phục vụ họ.
 
BÀI ĐỌC I (Kn 2: 1…3: 9)
 
Những khẳng định của sách Khôn Ngoan đánh dấu một khúc quanh quan trọng về cuộc sống mai sau của con người. Chúng kết thúc thời gian dài các nhà tư tưởng Do thái do dự về số phận của những người công chính ở bên kia nấm mồ. Vấn đề thưởng phạt thường được nêu lên suốt nhiều thế kỷ mà không có giải pháp thỏa đáng nào.
 
1. Tiến trình phát triển quan niệm Cựu Ước về sự sống lại:
 
Trong lịch sử dài nầy, tư tưởng chiếm ưu thế đó là “nhân quả”: “ở hiền gặp lành”, “gieo gió gặp bảo” ngay trong cuộc đời tại thế. Người công chính vui hưởng những hoa quả công đức của mình như phúc, lộc, thọ, trong khi bọn ác nhân không sớm thì muộn sẽ phải đón nhận những tai ương hoạn nạn: lưới trời lồng lộng, không ai có thể thoát được. Quan niệm về thưởng phạt ngay từ cõi đời nầy phát xuất từ một niềm tin quá bi quan và yếm thế về cuộc sống mai hậu. Tất cả mọi người, dù thiện hay ác, khi từ giả cõi đời nầy đều cùng chung một số phận, bị giam cầm trong cõi Âm Ty, ở đó không còn gì ngoài bóng tối âm u.
 
Nhưng kinh nghiệm thường ngày: “những đều trong thấy mà đau đớn lòng”, cực lực phản bác viễn cảnh thưởng phạt ngay từ cuộc đời trần thế nầy. Sách Gióp (khoảng thế kỷ thứ 6-5 BC) xao xuyến nêu lên vấn đề “họa vô đơn chí” giáng xuống trên người công chính. Quả thật, các ngôn sứ đã tuyên xưng rằng số phận của người công chính khác với bọn ác tâm ở bên kia nấm mồ. Các thánh vịnh gia công bố rằng người công chính sẽ được hưởng phúc vinh hiển trước Nhan Thiên Chúa muôn đời (Tv 16, 17, 49, 73).
 
Tiếp đó, niềm tin vào kẻ chết sống lại vào ngày chung thẩm xuất hiện. Vào thời vua An-ti-ô-khô Ê-pi-pha-nê bách hại dân Do thái ở Palestine thật khủng khiếp, những người tử đạo chết trong khi tuyên xưng niềm tin của mình vào một cuộc sống mai hậu (2Mcb 7: 1-38).
 
Tác giả sách Khôn Ngoan còn đi xa hơn nữa. Ông thấy niềm tin của người Hy lạp vào sự bất tử của linh hồn như một sự củng cố cho niềm hy vọng vào sự sống lại mai hậu của dân Do thái, dù vẫn còn tiềm tàng hay rụt rè. Nhưng ông cũng nhận ra rằng tư tường Hy lạp nầy không hoàn toàn tương xứng với tư tưởng kinh thánh. Quả thật, người Hy lạp đề cao linh hồn đến mức xem thường thân xác như một thứ hình hài tạm bợ, đáng khinh bĩ, mãi mãi sẽ bị vứt bỏ sau khi chết.
 
2. Quan niệm sai lầm về con người.
 
Trước hết, tác giả sách Khôn Ngoan phản bác quan niệm duy vật sai lầm về con người: sinh ra là một sự ngẫu nhiên, sống chỉ là cho qua ngày đoạn tháng. Khi hơi thở biến mất, cuộc sống tan biến như mây khói; tư tưởng như ngọn lửa bên trong vụt tắt, thân xác chỉ còn tro bụi. Theo quan niệm duy vật nầy, không có chỗ nào được dành cho Đấng Tạo Hóa và Quan Phòng của Ngài.
 
Sách Khôn Ngoan được viết vào giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên ở Alexandrie cho những đồng bào của mình, họ đang bị cám dỗ bởi những sức hấp dẫn của nền văn minh ngoại giáo chung quanh. Số lượng người bội giáo (tác giả gọi “quân vô đạo”) đáng lo ngại. Theo tác giả, uy thế của triết học và các tôn giáo khác, dù hệ thống học thuyết có mê hoặc lòng người đến đâu đi nữa, cũng không thể nào biết được sự hiện hữu của một Thiên Chúa ngôi vị, Đấng có một kế hoạch riêng biệt cho con người và là một Thiên Chúa tình yêu. Đối lập với quan niệm vô tri và duy vật nầy, tác giả mô tả quan niệm đích thật về con người mà Thiên Chúa đã mặc khải.
 
3. Quan niệm đích thật về con người.
 
Ở trung tâm tiến trình lập luận của mình, tác giả đã đặt mặc khải thiết yếu nhất liên quan đến con người: “Họ được Người dựng nên làm hình ảnh của bản tính Người” (2: 23) như chúng ta đọc thấy trong sách Sáng Thế: “Thiên Chúa làm ra con người theo hình ảnh Ngài, giống như Ngài” (St 1: 26). Vì thế, Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất tử. Từ đó, tác giả khai triển những viễn cảnh vinh quang đang chờ đợi những người đức hạnh vẹn toàn, sống một đời thánh thiện: “Linh hồn người công chính ở trong tay Thiên Chúa; họ đang hưởng an bình”.
 
Tất cả những khai triển nầy mang đậm nét kinh thánh, đặc biệt được gợi hứng từ các chương đầu tiên của sách Sáng Thế, không liên hệ gì đến triết học của Platon. Lập luận chủ yếu của tác giả căn cứ trên Mặc Khải. “Linh hồn” mà tác giả nói đến ở đây không là linh hồn bất tử ở trong một thân xác hủy hoại theo Nhị Nguyên Thuyết Hy lạp, nhưng là nephesh, “sinh khí của Thiên Chúa” (St 2: 7).
 
Từ nay, vấn đề sự chết và đau khổ được soi sáng. Cái chết không còn là án phạt nữa nhưng là ngưỡng cửa bước vào cõi trường sinh bất tử. Đau khổ là một sự thử thách như “lửa thử vàng, gian nan thử đức” nhằm tôi luyện cuộc đời của các tôi trung của Thiên Chúa thành “của lễ toàn thiêu” .
 
4. Vinh quang chung cuộc.
 
“Khi đến giờ được Thiên Chúa viếng thăm, họ sẽ rực sáng như tia lửa bén nhanh khắp rừng sậy”

“Thiên Chúa viếng thăm” là diễn ngữ kinh thánh, tức là một sự can thiệp chứa chan ân tình của Thiên Chúa như trong những lời trăn trối sau cùng của tổ phụ Giu-se cho các anh em mình: “Thế nào Thiên Chúa cũng viếng thăm anh em” (St 50: 24), nghĩa là Ngài sẽ ban cho anh em muôn vàn ân phúc của Ngài. Tác giả sách Khôn Ngoan nhắm đến việc Thiên Chúa sẽ tỏ mình ra vào thời cánh chung. Những người công chính sẽ rực sáng vinh quang, Thiên Chúa sẽ đặt họ “xét xử muôn dân và thống trị muôn nước”, nghĩa là đức hạnh của người công chính sẽ chiến thắng trên ác tâm quỷ quyệt của quân vô đạo. Chính trong chiều hướng nầy mà thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Nào anh em chẳng biết rằng dân thánh sẽ xét xử thế gian sao?” (1Cr 6: 2) và sách Khải Huyền viết: “Ai thắng và giữ cho đến cùng các việc Ta truyền, Ta sẽ ban cho người ấy quyền cai trị các dân” (Kh 2: 26).
 
Đức Giê-su sẽ sử dụng diễn ngữ tương tự để xác định vị thế các môn đệ Ngài trong Vương Quốc Nước Trời: “Khi Con Người ngự trên ngai vinh hiển của Ngài, các anh cũng vậy, những người đã theo Thầy, ngự trên mười hai ngai tòa để xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en”.
 
5. Thiên Chúa là tình yêu, ân phúc và từ tâm.
 
Niềm hy vọng lớn lao nầy được đặt để vào tình yêu, ân phúc và từ tâm của Thiên Chúa. Chính ở nơi tình yêu, ân phúc và từ tâm nầy mà những người công chính sống.
 
“Những ai trông cậy vào Chúa sẽ am tường sự thật, và những ai trung thành thì được Chúa yêu thương và cho ở gần Người, vì Người ban ân huệ, và thương xót những ai được Người tuyển chọn”. Lời kết thúc của bài đọc I nầy được viết trước các sách Tin Mừng một thế kỷ, loan báo sứ điệp rất gần với sứ điệp Tin Mừng. Có một tiến trình liên tục từ Mặc Khải Cựu Ước đến Mặc Khải Tân Ước.
 
BÀI ĐỌC II (1Ga 3: 14-20)
 
Ba bức thư không đề tên tác giả được quy cho thánh Gioan. Những tương đồng về tư tưởng và hành văn của ba bức thư này với sách Tin Mừng thứ tư buộc phải chấp nhận cùng một tác giả.
 
1. Người nhận và đề tài:
 
Trong ba bức thư này, thư thứ nhất thì dài nhất và quan trọng nhất về phương diện đạo lý. Xem ra bức thư này được gởi cho các cộng đoàn miền Tiểu Á, các cộng đồng mà vị Tông Đồ bày tỏ tình phụ tử tinh thần với họ khi gọi họ một cách trìu mến: “những người con bé nhỏ”, hay “những người con thơ bé”, những người này bị những trào lưu lạc giáo tác động đến.
 
Trong thư này, thần học Gioan được khai triển chung quanh ba đề tài: Thiên Chúa là Tinh Yêu, Thiên Chúa là Ánh Sáng và Thiên Chúa là Đấng Công Chính. Thiên Chúa là tình yêu, vì thế chúng ta phải yêu thương nhau, được lập đi lập lại không ngừng như một điệp khúc.
 
2. Đức ái bằng việc làm chứ không bằng lời nói:
 
“Chúng ta biết rằng: chúng ta đã từ cõi chết bước vào cõi sống, vì chúng ta yêu thương anh em”. Đức ái huynh đệ là bản trắc nhiệm qua đó người ta nhận ra người Ki-tô hữu, vì người Ki-tô hữu phải noi gương Đức Ki-tô, Đấng đã thí mạng vì anh em nhân loại của Ngài.
 
Như thánh Gia-cô-bê trong thư của ngài, thánh Gioan nhấn mạnh đức ái bằng việc làm chứ không bằng lời nói. Đức ái có cội nguồn trong tình yêu Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ở lại trong người biết yêu thương. Chúng ta gặp lại từ vựng của sách Tin Mừng thứ tư, ở đó động từ “ở lại” chất chứa toàn bộ ý nghĩa của cuộc sống nội tâm trong ân sủng.
 
3. Yêu thương chính là đứng về phía sự thật:
 
“Đứng về phía sự thật”, đây đích thật cũng là lời Chúa Giê-su nói với Phi-la-tô: “Ai đứng về phía sự thật, thì nghe tiếng tôi” (Ga 18: 37). Sự thật không là một điều thiện hảo, mà người ta độc chiếm cho riêng mình, mà người ta có thể tuyên bố mình có quyền sở hữu. Sự thật là một điều thiện hảo siêu việt  mà người ta đồng ý đi theo. Thánh Gioan ngỏ lời với những Ki-tô hữu mà tâm trí họ đang hoang mang xao xuyến vì những ngôn sứ giả đã gieo rắc những nghi ngờ về tính chất Mê-si-a của Đức Giê-su, hay tuyên bố rằng không cần phải qua Đức Ki-tô để đến Thiên Chúa.
 
Tiêu chuẩn căn bản của Ki-tô giáo chính truyền là thực thi điều răn yêu thương. Ấy vậy, những kẻ truyền bá những sai lạc không có tiêu chuẩn này. Thánh Gioan vừa mới vạch mặt chỉ tên họ: “Ai nói rằng mình ở trong ánh sáng mà lại ghét anh em mình, thì vẫn còn ở trong bóng tối” (1Ga 2: 9).

Chúng ta không xác định được cách hành xử của những ngôn sứ giả này, nhưng sau này chúng ta biết rằng những người ngộ thuộc đạo thuyết đã khinh bĩ đám đông tín đồ không đủ khả năng đạt đến trình độ “hiểu biết của họ”.
 
4. Người Ki-tô hữu hãy vững dạ an lòng:
 
“Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta”. Có lẽ không có bản văn nào tuyệt diệu hơn để suy niệm khi người ta suy nghĩ về cái chết, như vào ngày mồng hai tháng Mười Một này, vào ngày đó cái chết bàng bạc khắp Phụng Vụ.
 
Thánh Gioan muốn đọc giả của mình được an lòng vững dạ: anh em đứng về phía tình yêu và sự thật, anh em hãy an tâm. Nhưng lời khuyên của thánh nhân vượt quá trạng huống lịch sử. Lời khuyên này là một định nghĩa về cuộc sống đạo nghiêm túc của người Ki-tô hữu. Thánh Gioan không ngại khuyên tín hữu thực thi đức ái, tin tưởng và phó thác vào Thiên Chúa, “Người biết hết mọi sự”. Khi Chúa Giê-su hỏi Phê-rô đến ba lần: “Này anh Si-mon, con ông Gioan, anh có yêu mến Thầy không?”. Phê-rô không trả lời gì khác ngoài: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy” và lần cuối cùng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”. Chúng ta gặp thấy cùng những ngôn từ như trong thư của thánh Gioan. Người Ki-tô hữu đừng sợ và hãy phó thác vào Thiên Chúa, Ngài biết cõi thâm sâu của tâm hồn chúng ta. Đây là lời khích lệ đem lại sự vững dạ an lòng: “Chúng ta sẽ được an lòng trước mặt Thiên Chúa. Vì nếu lòng chúng ta có cáo tội chúng ta, Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta”.
 
TIN MỪNG (Lc 12: 35-45)
 
Những lời khuyên của Chúa Giê-su hãy tỉnh thức được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật trong khung cảnh của những lời căn dặn liên quan đến ngày cánh chung và ngày Con Người ngự đến (Mt 24: 43-51; Mc 13: 35-37; Lc 21: 34-36). Thánh Lu-ca trích dẫn những lời khuyên này ngay từ bây giờ, lần thứ nhất, trong suốt giáo huấn chung của Chúa Giê-su về những phẩm chất cần phải có để được vào Nước Trời: từ bỏ mọi sự, phó thác vào ơn Quan Phòng, bán hết của cải và phải sẵn sàng luôn.
 
1. Tỉnh thức là bổn phận của người tôi tớ trung tín:
 
Tỉnh thức là hình ảnh Kinh Thánh. Ngôn sứ Ê-dê-ki-en sánh ví sứ mạng của mình với sứ mạng của một người canh gác (Ed 3: 17). Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị gợi lên quân canh gác trên tường thành Giê-ru-sa-lem dõi mắt trông chờ những người lưu đày hồi hương trở về: “Kìa nghe chăng quân canh gác của ngươi cùng cất tiếng reo hò vang dậy; họ sẽ được thấy tận mắt Đức Chúa đang trở về Xi-on” (Is 52: 8). Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ Ngài hãy tình thức chờ đợi Ngài trở lại bất ngờ trong đêm khuya cũng theo cùng một cách như vậy. Lời mời gọi này kêu gọi đừng để đức tin ngủ mê. Đức tin là ánh sáng phải chiếu soi trong bóng tối, bóng tối của sự Ác, bóng tối của sự bất tín. Chúa Giê-su đã nhấn rất mạnh tính biểu tượng đức tin này: “Nếu toàn thân anh sáng, không có phần nào tối tăm, thì nó sẽ sáng hoàn toàn, như khi đèn tỏa sáng chiếu soi anh” (Lc 11: 36).

Việc Ông Chủ trở về sẽ xảy ra trong đêm, vì cuộc trở lại này sẽ khai mạc một ngày vô cùng tận, như lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a: “Quyết đinh của Ta, Ta sẽ công bố là ánh sáng muôn dân…Ơn cứu độ của Ta sắp xuất hiện” (Is 51: 4-5).
 
2. Phần thưởng dành cho người tôi tớ trung tín:
 
Các ngôn sứ và các hiền nhân Cựu Ước đã biểu thị một bữa tiệc mà Thiên Chúa thiết đãi những người được tuyển chọn dưới hình ảnh niềm hoan hĩ và sự phong phú của những thiên ân (Is 25: 6-8 và 55: 1-3; Gr 31: 14; Tv 63: 6; Am 9: 13; vân vân).
 
Tân Ước lấy lại chiều kích biểu tượng này: Nước Trời được sánh ví với tiệc cưới (Mt 22: 2-13; Lc 14: 15-24). Vào lúc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su ám chỉ đến bàn tiệc cánh chung này: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy” (Mt 26: 29).
 
Tuy nhiên, không bất kỳ bản văn ngôn sứ nào, không bất kỳ gợi ý của các sách minh triết nào đã tưởng tượng Thiên Chúa lại có thể đón tiếp những tớ tớ trung tín đến mức Ngài đích thân “thắt lưng, đưa họ vào bàn ăn, và đến từng người mà phục vụ”. Dụ ngôn này, riêng của thánh Lu-ca, thì thật lạ lùng nhất và gợi nhiều ý tứ nhất, được đọc trong suốt phụng vụ tôn kính những tín hữu đã qua đời. Chúng ta cũng gặp thấy trong sách Khải Huyền đề tài bữa ăn trong bối cảnh cánh chung, ở đó dấu nhấn được đặt trên sự mật thiết giữa Thiên Chúa và “người chiến thắng”: “Này đây Ta đứng bên cửa và gõ. Ai nghe tiếng Ta và mở cửa, thì Ta sẽ vào nhà người ấy, sẽ dùng bữa với người ấy, và người ấy sẽ dùng bữa với Ta” (Kh 3: 20).

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập558
  • Máy chủ tìm kiếm2
  • Khách viếng thăm556
  • Hôm nay91,605
  • Tháng hiện tại921,062
  • Tổng lượt truy cập57,022,699
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây