Giải thích Lời Chúa Chúa nhật II Thường Niên A.

Thứ ba - 11/01/2011 05:40

Ơn Cứu độ.

Ơn Cứu độ.
Phụng vụ Chúa Nhật hôm nay xoay quanh một chủ đề trung tâm: ơn gọi và sứ mạng của Người Tôi Trung Đức Chúa ngỏ hầu đem lại ơn cứu độ cho muôn người.

CHÚA NHẬT II THƯỜNG NIÊN

Lm Inhaxiô Hồ Thông

Phụng vụ Chúa Nhật hôm nay  xoay quanh một chủ đề trung tâm: ơn gọi và sứ mạng của Người Tôi Trung Đức Chúa ngỏ hầu đem lại ơn cứu độ cho muôn  người.

Is 49: 3, 5-6

Trước hết, ngôn sứ I-sai-a đệ nhị loan báo rằng Người Tôi Trung mà Thiên Chúa ủy thác sứ mạng không chỉ dẫn đưa dân Ngài trở về với Ngài, nhưng còn là ánh sáng cho muôn dân.

1Cr 1: 1-3

Tiếp đó, thánh Phao-lô tự giới thiệu mình với giáo đoàn Cô-rin-tô, giáo đoàn mà thánh nhân đã thành lập trong chuyến hành trình truyền giáo lần thứ hai của mình vào những năm 50-52, rằng Thiên Chúa đã gọi thánh nhân làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô.

Ga 1: 29-34

Sau cùng, Gioan Tẩy Giả tự nhận mình có vinh dự được Chúa Cha chọn với sứ mạng mặc khải Đức Giê-su, Con Một Thiên Chúa, Đấng đến sau ông nhưng trổi vượt hơn ông, vì có trước ông”.

BÀI ĐỌC I (Is 49: 3, 5-6)

Tác phẩm của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị (Is 40-55) chứa đựng bốn bài ca về “Người Tôi Trung”. Chúa Nhật vừa qua, Chúa Nhật tưởng niệm phép rửa của Chúa Ki-tô, chúng ta đã đọc bài ca thứ nhất, ca ngợi Người Tôi Trung của Đức Chúa, nhân vật mầu nhiệm, người được Thiên Chúa tuyển chọn và sủng ái, đầy tràn Thần Khí. Vào Chúa Nhật II Thường Niên này, chúng ta sẽ đọc bài ca thứ hai trong bốn bài ca này.

Trong bài chú giải tuần trước, chúng ta đã nói đến sự khó khăn trong việc giải thích nhân vật mầu nhiệm này: chân dung được phác họa trong bốn bài ca xem ra liên quan đến lúc thì toàn thể dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật biệt phân lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt. Khía cạnh tập thể và khía cạnh cá nhân chồng chéo lên nhau rất rõ nét ở nơi bài ca thứ hai này.

Trước hết, điểm nhấn được đặt trên khía cạnh tập thể, vì trong bài ca này cốt là ơn gọi của dân Ít-ra-en: là vinh quang của Đức Chúa, quy tụ cho Thiên Chúa một dân tín trung, và là ánh sáng muôn dân.

1. Vinh quang của Đức Chúa:

Như trong bài ca thứ nhất, hoàn cảnh lịch sử là cảnh giam cầm ở Ba-by-lon. Dân Ít-ra-en mà vị ngôn sứ ngỏ lời, qua giọng nói của Người Tôi Trung mầu nhiệm, là cộng đoàn của những người lưu đày, cộng đoàn trong cơn thử thách, bị thương tổn và ê chề nhục nhã. Nhưng Thiên Chúa sẽ can thiệp (tất cả mạch văn của chương này đều theo chiều hướng này); Ngài sẽ giải thoát dân Ngài. Các quốc gia ngoại giáo nghĩ rằng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en không còn nhớ đến dân Ngài, nhưng rồi họ sẽ thấy rằng bằng quyền năng, Đức Chúa sẽ tiêu diệt những kẻ áp bức. Dân Ít-ra-en sẽ là vinh quang của Ngài.

2. “Giờ đây Đức Chúa lại lên tiếng”:

Sau một thời gian dài Thiên Chúa thinh lặng, nay Thiên Chúa lại lên tiếng; Thiên Chúa quan tâm đến dân Ngài, dân mà Ngài để ý đến ngay từ khi còn phôi thai: “Người đã nhào nắn ra tôi từ khi tôi còn trong lòng mẹ để tôi trở thành người tôi trung”.

Diễn ngữ “từ khi tôi còn trong lòng mẹ” trở thành kinh điển để nhấn mạnh tính chất tiền định của ơn gọi, nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa. Ngôn sứ Giê-rê-mi-a là vị ngôn sứ đầu tiên đã sử dụng diễn ngữ này (Gr 1: 5) và được mọi người kế thừa. Thánh Phao-lô lấy lại diễn ngữ này và áp dụng vào ơn gọi của mình: “Thiên Chúa đã dành riêng tôi ngay từ khi tôi còn trong lòng mẹ, và đã gọi tôi nhờ ân sủng của Người. Người đoái thương mặc khải Con của Người cho tôi loan báo Tin Mừng về Con của Người cho các dân ngoại” (Gl 1: 15-16).

Chính ở đây mà vấn đề được đặt ra: phải chăng Người Tôi Trung biểu thị cộng đoàn của những người lưu đày hay một nhân vật được tác riêng ra để trở thành vị lãnh đạo hay người hướng dẫn của dân?.

3. Sứ mạng kép của Người Tôi Trung:

Dù Người Tôi Trung này là cộng đoàn những người lưu đày – quả thật, trong lịch sử cứu độ, cộng đoàn này đóng vai trò của “một nhóm nhỏ còn sót lại” – hay đây là một nhân vật biệt phân đi nữa, thì sứ mạng hàng đầu của Người Tôi Trung này là “đem nhà Gia-cóp về cho Người và quy tụ dân Ít-ra-en chung quanh Người”.

Chắc chắn phải hiểu “đem về” theo nghĩa kép, vừa vật lý vừa luân lý: đem những người lưu đày về quê cha đất tổ của họ và đem một dân bất trung và bị trừng phạt về với Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn làm cho dân này thành hạt nhân vững chắc, qua đó Ngài sẽ tái lập dân tộc thánh.

4. “Quy tụ dân Ít-ra-en”:

Một trong những bận lòng lớn lao của những người lưu đày, đó là quy tụ tất cả các chi tộc tản mắc khắp nơi. Vai trò của Người Tôi Trung sẽ là tái lập sự hiệp nhất.

Đây là sứ mạng chứa chan niềm tin tưởng, công việc tràn đầy niềm phấn khởi. Người Tôi Trung thẩm định vinh dự được dành cho mình: “Thế nên tôi được Thiên Chúa trân trọng”. Nhưng công việc này thật khó khăn, phải nương tựa vào ơn trên: “Thiên Chúa tôi thờ là sức mạnh của tôi”.

5. Ánh sáng muôn dân:

Đức Chúa cho rằng công việc tái lập dân Ngài này là chưa đủ: “Nếu ngươi chỉ…để tái lập các chi tộc Gia-cóp, để dẫn đưa các người Ít-ra-en sống sót trở về, thì vẫn còn quá ít. Vì vậy, này Ta đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất”.

Bài ca này nối kết và làm sáng tỏ bài ca thứ nhất qua diễn ngữ: “ánh sáng muôn dân”. Rõ ràng sứ mạng của dân Ít-ra-en – hay ở đây có thể sứ mạng của “nhóm nhỏ còn sót lại”, tức là những người lưu đày được cứu thoát – chính là làm cho ơn cứu độ được tỏa sáng, đó không gì khác hơn chính công việc của Đức Chúa.

Thánh Phao-lô đã cảm thấy một cách sống động những điểm tương đồng của ơn gọi Người Tôi Trung, đặc biệt được tuyển chọn để là “ánh sáng muôn dân”, với ơn gọi của chính mình. Thánh nhân đã tự áp dụng vào chính mình những lời của vị ngôn sứ, với cung giọng thống thiết, trong hội đường An-ti-ô-khi-a miền Pi-xi-đi-a khi mạnh dạn nói với những người Do thái cứng tin rằng, từ nay, thánh nhân quay về phía các dân ngoại, vì họ mở rộng lòng mình đón tiếp lời Chúa hơn (Cv 13: 46-47).

6. Khía cạnh Mê-si-a:

Trong viễn cảnh xa, ẩn hiện dung mạo Người Tôi Trung thập toàn, tức Chúa Ki-tô, ở nơi Ngài Chúa Cha sẽ được tôn vinh. Ngài sẽ quy tụ dân Do thái và lương dân thành một dân duy nhất, Ngài sẽ là “ánh sáng thế gian” và nguồn ơn cứu độ cho tất cả mọi người. Đó cũng là những ngôn từ của bài ca “An Bình Ra Đi” của cụ già Si-mê-on: “Muôn lạy Chúa, giờ đây theo lời Ngài đã hứa, xin để tôi tớ này được an bình ra đi. Vì chính mắt con được thấy ơn cứu độ Chúa đã dành sẳn cho muôn dân: Đó là ánh sáng soi đường cho dân ngoại, và vinh quang của Ít-ra-en Dân Ngài” (Lc 2: 29-32).

BÀI ĐỌC II (1Cr 1: 1-3)

Khởi đầu thư của thánh Phao-lô gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân tự giới thiệu mình là tông đồ của Chúa Giê-su Ki-tô, không do thánh nhân chọn nhưng hoàn toàn do thánh ý của Thiên Chúa.

1. Bối cảnh:

Thánh Phao-lô đã thành lập Giáo Đoàn Cô-rin-tô vào những năm 50-52. Cô-rin-tô là một thành phố tương đối mới, được hoàng đế Giu-li-ô Xê-da tái thiết vào năm 44 trước Công Nguyên trên những hoang tàn đổ nát của thành phố cổ đã bị đạo quân Rô-ma phá hủy vào năm 146 trước Công Nguyên. Đây là thủ phủ thương mại, ngã tư duyên hải, hưởng được một vị thế địa lý đặc biệt với hai hải cảng. Đây là thành phố đang trên đà phát triển, với những tương phản xã hội: những nhà tài chính và thương mại giàu có bên cạnh những phu khuân vác và những kẻ nô lệ. Thủ đô xa hoa tráng lệ và được đặt dưới sự bảo trợ của nữ thần Aphrodite (nữ thần sắc đẹp và tình yêu của người Hy-lạp). Đền thờ của nữ thần này được hàng ngàn nữ tư tế phụng thờ, tức là những kỹ nữ thánh thiêng phục vụ cho khách thăm viếng. Sau cùng, với tư cách là cái nôi văn hóa, thành phố Cô-rin-tô được mệnh danh là nơi trăm hoa đua nở của nhiều trường phái triết học và tôn giáo khác nhau.

2. Một cộng đoàn Ki tô hữu tiên khởi:

Thánh Phao-lô đã đến Cô-rin-tô vào cuối mùa đông năm 50-51 (Cv 18: 1-18), lưu lại đây mười tám tháng (Cv 18: 11) và đã gây dựng nên ở đây một Giáo Đoàn sống động. Nhưng ngay sau khi thánh nhân ra đi, Giáo Đoàn đã phải đối mặt với biết bao những khó khăn nghiêm trọng khiến thánh nhân phải lo lắng: buông thả luân lý, bất đồng nội bộ, ngờ vực đạo lý, lạm dụng phụng vụ. Thánh nhân viết thư thứ nhất gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô này để can thiệp, nhưng thư này bị thất lạc không đến được chúng ta. Chúng ta biết được bức thư này thất lạc nhờ 1Cr 5: 9: “Trong thư đã gởi cho anh em, tôi có viết là đừng giao du với những kẻ dâm đảng”.

Cuộc khủng hoảng càng trở nên trầm trọng, thánh nhân sai cộng tác viên của mình, ông Ti-mô-thê, viếng thăm cộng đoàn này. Khi trở về, ông Ti-mô-thê đem theo một loạt câu hỏi mà thánh Phao-lô trả lời trong bức thư “thứ nhất” này, nhưng trên thực tế, đây lại là bức thư thứ hai. Quả thật, thánh Phao-lô đã viết bốn bức thư cho các tín hữu Cô-rin-tô, trong số đó, bức thư thứ nhất và bức thư thứ ba bị thất lạc. Chúng ta biết bức thư thứ ba bị thất lạc là nhờ 2Cr 2: 4: “Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em: tôi viết không phải để gay ưu phiền, nhưng là để cho anh em biết tôi hết lòng yêu mến anh em”. Xem ra “bức thư đẩm lệ” này không thể là 1Cr được, nên người ta nghĩ là nó đã thất lạc. Như vậy, bức thư mà chúng ta gọi thư thứ nhất, thực ra là thư thứ hai, và bức thư mà chúng ta gọi thư thứ hai, thực ra là thư thứ tư.

Thánh nhân viết thư thứ nhất này từ Ê-phê-xô vào mùa xuân năm 55. Những chia rẽ nội bộ làm phân rẽ cộng đoàn non trẻ này và đó sẽ là đối tượng phần thứ nhất của bức thư này. Thánh nhân khuyên cộng đồng tín hữu hãy đồng tâm nhất trí, nên “một lòng một ý” với nhau mà chúng ta khởi sự đọc vào Chúa Nhật hôm nay và tiếp tục vào những Chúa Nhật kế tiếp.

3. Khủng hoảng nghiêm trọng:

Chúng ta không thể đọc thư này mà không xúc động, và đồng thời thán phục những lập luận thần học sâu sắc của thánh Phao-lô hay phương pháp huấn giáo của thánh nhân. Đối với thánh nhân, cuộc khủng hoảng ở Giáo Đoàn Cô-rin-tô là một thử thách nghiêm trọng, vì thánh nhân không chỉ thấy công trình của mình bị đe dọa, nhưng ngài còn phải chịu những lời lăng mạ về chính cá nhân mình. Thánh nhân quyết định viết một bức thư đẩm lệ: “Thật thế, tôi đã vô cùng đau khổ, con tim se thắt, nước mắt chan hòa khi viết cho anh em” (2Cr 2: 4). Như trên đã nói, bức thư này thực ra là bức thư thứ ba, bị thất lạc, nay hình thành nên các chương 10-13 của thư thứ hai.

Tấn thảm kịch này giúp cho chúng ta nhận ra biết bao khó khăn trong việc cấy Ki-tô giáo vào môi trường ngoại giáo, môi trường này vốn được đào luyện bởi một nền văn hóa khác tận căn với Do Thái giáo và vào lúc đó Giáo Hội chỉ vừa mới hình thành nên chưa có những khuôn khổ đủ.

4. Lời mở đầu:

Bản văn này là lời mở đầu. Phù hợp với tập quán thư tín của thời ấy, lời mở đầu bao gồm:

- tên và phẩm chất của người gởi,

- tên và phẩm chất của người nhận.

“Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Đồ của Đức Giê-su Ki-tô”. Thánh Phao-lô tự ý kể ra rằng ngài đã lãnh nhận ơn gọi của mình trực tiếp từ Thiên Chúa: thánh nhân là Tông Đồ cùng tước hiệu như Nhóm Mười Hai. Tiếp liền sau đó, thánh Phao-lô nêu tên “ông Xốt-thê-nê là người anh em của chúng tôi”: “người anh em” là danh xưng mà những người Ki tô hữu xưng hô với nhau.

Người nhận là các Ki-tô hữu, họ hình thành nên “Hội Thánh của Thiên Chúa” ở Cô-rin-tô (đây là diễn ngữ ưa chuộng của thánh Phao-lô). Họ cũng đã được kêu gọi và “đã được hiến thánh nhờ kết hiệp với Đức Ki-tô”, nhưng ngay tức khắc, thánh nhân mời gọi họ hãy khiêm tốn khi đặt mình trên cùng một bình diện với anh em của mình trong đức tin: thánh nhân muốn cho họ cảm thấy rằng các Ki-tô hữu nên một với Đức Ki-tô, vì thế bất cứ sự chia rẽ nào đều là thái độ kém phẩm chất Ki-tô hữu biết là dường nào.

Trong lời nguyện chúc sau cùng này, thánh Phao-lô hiệp nhất lời chào Hy lạp “ân sủng” và lời chào Do thái “bình an”, ngầm chất chứa ở nơi hai lời chào này những nguồn phong phú mới, trong Đức Ki-tô. Trong nhiệm cục cứu độ, Đức Ki-tô đóng vai trò Người Tôi Trung làm trung gian cứu độ cho mọi người. Nhưng đồng thời Người cũng chính là Con Thiên Chúa, đồng bản tính với Chúa Cha, vì thế Người cũng là nguồn ân sủng và bình an, là căn nguyên ơn cứu độ cho nhân loại. Chính ở nơi Người tất cả nhân loại được mời gọi nên thánh.

TIN MỪNG (Ga 1: 29-34)

Đoạn Tin Mừng này đặc biệt được trích dẫn từ Tin Mừng Gioan chứ không Tin Mừng Mát-thêu như theo lẽ thường của phụng vụ năm A này. Một cách nào đó, đoạn Tin Mừng này tiếp nối với đoạn Tin Mừng Chúa Nhật vừa qua. Tuy nhiên, đây không là đọc lại câu chuyện phép rửa của Chúa Giê-su, nhưng là lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả về Chúa Giê-su.

1. Chứng nhân:

Quả thật, tất cả phần mở đầu của Tin Mừng Gioan đều xoay quanh vai trò quan trọng của Gioan Tẩy Giả với tư cách là nhân chứng. Thánh Gioan là một chứng nhân trung thực và khiêm tôn đã không ngần ngại tự xóa mình để hướng mọi ánh mắt vào Đức Giê-su, Đấng mà thánh nhân có sứ mạng làm chứng.

Tựa Ngôn bị ngắt hai lần để đưa nhân vật Gioan Tẩy Giả vào. Ở lần thứ hai (1: 15) lập lại theo cùng những ngôn từ ở các câu 29-34 này. Đây là điểm nhấn của thánh ký.

Tình tiết xảy ra vào những ngày Chúa Giê-su, sau khi trở về từ hoang địa, sắp bắt tay vào sứ vụ công khai của Ngài. Thánh Gioan Tẩy Giả đã nhận ra căn tính của Đấng mà ông đã làm phép rửa; vì thế, thánh nhân lên tiếng làm chứng về Ngài:

- thánh nhân đồng hóa Đức Giê-su với Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian,

- thánh nhân khẳng định cuộc sống tiền hữu của Đức Giê-su và tính ưu việt của Ngài,

- thánh nhân chứng thực điều mà thánh nhân đã thấy và đã nghe: Đức Giê-su, được Chúa Thánh Thần tấn phong, đích thật là Con Thiên Chúa.

2. Chiên Thiên Chúa:

“Đây là Chiên Thiên Chúa”, danh hiệu mầu nhiệm; nhưng trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả, chắc chắn đây là danh hiệu Mê-si-a.

Đối với những người Ki tô hữu mà thánh ký ngỏ lời, danh hiệu này gợi lên hy tế Vượt Qua của Chúa Ki-tô, Ngài sẽ chết trên thập giá vào giờ mà các con chiên lễ Vượt Qua bị sát tế. Một quan điểm như thế không thể nào là quan điểm của vị Tiền Hô được.

Quả thật, Cựu Ước đã mô tả Người Tôi Trung “bị ngược đãi, cam chịu nhục, chẳng mỏ miệng kêu ca, như chiên bị đem đi làm thịt” (Is 53: 7). Đối với Gioan Tẩy Giả, xem ra thực hơn, chiên là hình ảnh của sự vô tội và sự tinh tuyền. Đấng mà vị Tiền Hô đã không muốn làm phép rửa vì ông đã nhận ra ở nơi Ngài một con người vô tội, chính Đức Giê-su này hiện có mặt ở đó và đang tiến về phía mình: Ngài như con chiên không tì vết mà Lề Luật truyền lệnh dâng hiến thành hy lễ.

Mặt khác, văn chương khải huyền, vẫn còn nở rộ vào thời Chúa Giê-su, tưởng tượng Đấng Mê-si-a đến dưới hình dạng của một con chiên yếu ớt, nhưng Thiên Chúa ban cho Ngài sức mạnh và quyền năng, và làm cho Ngài thành một con chiên khải hoàn. Chính xác, thánh Gioan lấy lại trong sách Khải Huyền của mình hình ảnh con chiên khải hoàn mà thánh nhân sẽ đồng hóa với hình ảnh con chiên bị sát tế.

3. Đấng xóa bỏ tội trần gian:

Cách nói này thì độc nhất trong toàn bộ Tân Ước và được lập lại mỗi lần cử hành Thánh Thể: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, phúc cho ai được mời đến tham dự bàn tiệc Thiên Chúa”.

Thánh ký nói về tội lỗi ở số ít. Khi đặt tội lỗi ở số ít, thánh ký hiệp nhất vào cùng một viễn cảnh tội lỗi của người Do thái và tội lỗi của lương dân, vì từ ngữ “trần gian” chỉ toàn thể nhân loại.

4. Cuộc sống tiền hữu và tính ưu việt của Chúa Giê-su:

“Có người đến sau tôi, nhưng trổi vượt hơn tôi, vì có trước tôi”. Lời tán dương này của thánh Gioan Tẩy Giả, được chen vào trong Tựa Ngôn rồi, được lập lại ở đây: lời này vừa khẳng định cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su vừa tính ưu việt của Ngài.

Thánh Mát-thêu đưa gia phả của Chúa Ki-tô lên đến tổ phụ Áp-ra-ham (Mát-thêu), còn thánh Lu-ca đưa lên đến nguyên tổ A-đam, trong khi thánh Gioan đưa gia phả của Đức Giê-su lên cho đến lúc khởi đầu tuyệt đối: “Lúc khởi đầu đã có Ngôi Lời…và Ngôi Lời là Thiên Chúa”. Như vậy, ở nơi lời chứng của thánh Gioan Tẩy Giả, cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su được nêu bật rất rõ nét bởi một sự đối lập rất mạnh giữa “có người đến sau tôi” ở phần đầu và “có trước tôi” ở phần sau cùng: về phương diện con người, Đức Giê-su chào đời sau Gioan Tẩy Giả, nhưng về phương diện Thiên Chúa, Ngài có trước Gioan Tẩy Giả.

5. Tước vị làm Con Thiên Chúa:

Lời chứng thứ ba của Gioan Tẩy Giả nhắm đến tước vị làm Con Thiên Chúa của Đức Giê-su được công bố vào lúc Ngài chịu phép rửa. Trong khi ba Tin Mừng nhất lãm gán lời khẳng định này cho tiếng phán từ trời, thì Tin Mừng thứ tư đặt tiếng phán này trên môi miệng của Gioan Tẩy Giả. Chính thánh nhân là người công bố: “Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Con Thiên Chúa”.

Đồng thời vị Tiền Hô xác định sứ mạng của mình: sứ mạng của thánh nhân chính là bày tỏ Đức Giê-su cho dân Ít-ra-en. “Tôi đã không biết Người”, nghĩa là tôi đã không biết căn tính đích thật của Ngài (động từ “biết” có một nghĩa rất mạnh trong Tin Mừng thứ tư). Nhưng nhờ cuộc thần hiện vào lúc Ngài chịu phép rửa mà thánh nhân xác nhận tính siêu việt của Đấng mà thánh nhân loan báo. Hơn nữa, Thần Khí đã báo trước cho thánh nhân rồi.

6. Thần Khí:

Mặt khác, Tin Mừng thứ tư là Tin Mừng duy nhất nhấn mạnh Chúa Giê-su được Chúa Thánh Thần tấn phong khi nói rằng Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su. Chúa Thánh Thần, Đấng hằng ở trong Chúa Giê-su, chiếm đoạt lấy Ngài. Quả thật, Chúa Giê-su, sinh hạ bởi quyền năng của Thánh Thần, được Thánh Thần hằng ở cùng kể từ khi thụ thai.

Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên Chúa Giê-su ở đây loan báo ngày lễ Ngũ Tuần: các Tông Đồ cũng được Chúa Thánh Thần tấn phong trước khi các ông bắt tay vào việc loan báo Tin Mừng. Cũng vậy, người Ki tô hữu vào lúc chịu Phép Rửa lãnh nhận sức sống của Chúa Thánh Thần, Đấng ở trong họ.

7. Khía cạnh lịch sử:

Cuối cùng, chúng ta không thể loại trừ rằng thánh ký Gioan đã có một hậu ý biện giáo, hay đúng hơn truyền giáo, khi nhấn rất mạnh tính trổi vượt của Chúa Giê-su trên Gioan Tẩy Giả. Quả thật, một thời gian dài sau khi vị Tiền Hô qua đời, vẫn còn có những cộng đoàn xem thánh nhân là Đấng Mê-si-a và họ tiếp tục thực hành phép rửa sám hối. Sách Công Vụ nói cho chúng ta biết có một nhóm như thế ở Ê-phê-xô (Cv 19: 1-7). Vì thế, thánh ký muốn xóa tan mọi ngộ nhận như vậy bằng cách khẳng định rằng Gioan Tẩy Giả không phải là Đấng Mê-si-a. 

Tác giả: Lm Hồ Thông.

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập331
  • Hôm nay30,870
  • Tháng hiện tại764,279
  • Tổng lượt truy cập58,050,148
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây