CN VII TN A (Giải thích Lời Chúa).

Thứ năm - 17/02/2011 09:40

Luật yêu thương.

Luật yêu thương.
Chủ đề căn bản chung cho Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này là sự thánh thiện của con cái Thiên Chúa, họ phải nên thánh thiện như Cha của họ, Đấng ngự trên trời, là Đấng hoàn thiện. Sự hoàn thiện này gặp thấy đỉnh cao của nó ở nơi luật yêu thương.

CHÚA NHẬT VII THƯỜNG NIÊN

Lm Hồ Thông

Chủ đề căn bản chung cho Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này là sự thánh thiện của con cái Thiên Chúa, họ phải nên thánh thiện như Cha của họ, Đấng ngự trên trời, là Đấng hoàn thiện. Sự hoàn thiện này gặp thấy đỉnh cao của nó ở nơi luật yêu thương.

Lv 19: 1-2, 17-18

Bài đọc I được trích từ sách Lê-vi, chính xác hơn từ phần được gọi “Luật Thánh Thiện” ở đó Đức Chúa đòi hỏi dân Ngài: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”“Ngươi hãy yêu đồng loại như yêu chính mình”.

1Cr 3: 16-23

Thánh Phao-lô nhắc nhở cho các tín hữu Cô-rin-tô rằng mọi người Ki-tô hữu là “Đền Thờ Thiên Chúa” vì họ được Chúa Thánh Thần ở cùng; họ không thuộc về sự khôn ngoan đời này nhưng sự khôn ngoan Thiên Chúa, vì họ thuộc về Đức Ki-tô và Đức Ki-tô lại thuộc về Thiên Chúa.

Mt 5: 38-48

Bản văn Tin Mừng Mát-thêu là phần tiếp theo diễn từ của Đức Giê-su về luật mới: “Anh em đã nghe Luật dạy…Còn Thầy, Thầy bảo anh em…”.

BÀI ĐỌC I (Lv 19: 1-2, 17-18)

Sách Lê-vi là quyển sách thứ ba trong năm cuốn sách Kinh Thánh được gọi “Ngũ Thư”: sách Sáng Thế, sách Xuất Hành, sách Lê-vi, sách Dân Số và sách Đệ Nhị Luật.

Sách Lê-vi là cẩm nang chủ yếu dành cho các thầy tư tế và các thầy lê-vi, những người này phải thuộc bộ tộc Lê-vi. Bộ tộc này có một quy chế đặc thù: họ không sở hữu đất đai và được dành riêng để thực thi những chức vụ thánh. Xưa kia, cả hai chức vụ: tư tế và lê-vi, là một. Sau này, chức vụ tư tế được dành cho những ai thực hiện những chức năng chính thức trong Đền Thánh Giê-ru-sa-lem, trong khi các thầy lê-vi đảm nhận những công việc thứ yếu.

Sách Lê-vi được trình bày như một bộ sưu tập các huấn thị nghi thức và các nguyên tắc luân lý có nguồn gốc và niên biểu khác nhau, thường rất xa xưa, với một ý tưởng chủ đạo: hình thành nên lương tâm luân lý của một dân tộc kề cận với sự thánh thiện của Thiên Chúa. Công trình biên soạn sau cùng thì rất muộn thời: đầu thế kỷ thứ năm trước Công Nguyên, tức là sau thời kỳ hồi hương trở về và công việc tái thiết Đền Thờ thứ hai, tuy nhiên việc sưu tập các bản văn và các truyền thống đã là một công việc dài lâu, khởi sự rất sớm, chắc hẳn ngay từ cuối thời quân chủ (đầu thế kỷ thứ sáu trước Công Nguyên).

Bản văn của chúng ta được trích từ chương 19, chương này góp phần hình thành nên một tổng thể được gọi “Luật về sự Thánh Thiện” (ch. 17-26).

1. Chúa phán với ông Mô-sê:

Phần lớn các chương sách Lê-vi đều bắt đầu như thế. Đối với dân Ít-ra-en, Lề Luật là cách diễn tả thánh ý của Thiên Chúa mà ông Mô-sê là người trung gian. Nhà biên soạn sách Lê-vi xây dựng hoạt cảnh, không chỉ trên núi Xi-nai, nhưng còn ở dưới chân núi, trước “Lều Hội Ngộ” nơi đặt Hòm Giao Ước. Ở đây không là hư cấu văn chương nhưng là ý hướng thần học: tất cả những khai triển Lề Luật sau này chỉ là sự nối dài luật pháp đầu tiên và được định vị vào trong cùng một tinh thần. Nói cách khác, sự liên tục không bao giờ bị gián đoạn.

2. “Hãy nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en”:

Thật ra, Ít-ra-en đầu tiên là một cộng đồng trước khi là một quốc gia; họ là “dân Thiên Chúa” và căn tính của họ chỉ được diễn tả tròn đầy ở nơi cộng đoàn phụng vụ.

Huấn lệnh này được ban cho ông Mô-sê để ông nói với toàn thể cộng đồng con cái Ít-ra-en chỉ được gặp thấy một lần trong sách Lê-vi: vào lúc tấn phong các tư tế. Xem ra nhà biên soạn đã muốn đánh dấu một sự đối chiếu giữa hai cách thế đi vào trong mối hiệp thông với Thiên Chúa:

- “Cách thế của các tư tế”, họ là những người trung gian giữa con người và Thiên Chúa. Các sách Cựu Ước khác đặt lên hàng đầu sự trung gian của ngôn sứ hay vua. Đối với sách Lê-vi, phụng tự và chức tư tế cấu thành nên sự trung gian cốt yếu. Vào thời kỳ biên soạn dứt khoát sách Lê-vi, dân Ít-ra-en đã không còn vua và truyền thống ngôn sứ đang trên đường biến mất.

- “Cách thế của các tín hữu”, qua đức tin của mình và việc thực hành các quy tắc thánh thiện, họ cũng có thể đi vào trong mối thân tình của Thiên Chúa.

3. “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”:

Huấn thị này nhiều lần được lập lại trong sách Lê-vi, và lời dạy của Chúa Giê-su cũng âm vang điều răn này: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5: 48).

Sự thánh thiện của Thiên Chúa là ý tưởng chủ đạo của sách Lê-vi. Thiên Chúa được gọi là “Đấng Thánh” không chỉ để ban cho Ngài phẩm chất luân lý cao nhất nhưng để nhấn mạnh khoảng cách của Ngài với phàm nhân tội lỗi, tính bất khả đạt của Ngài, mầu nhiệm của Ngài. Theo gương Thiên Chúa của mình, dân Ít-ra-en được mời gọi tách riêng ra khỏi các dân ngoại, tránh xa tội lỗi, thánh hóa bản thân mình. Những chỉ thị của Luật Thánh Thiện chỉ cho họ con đường.

Phần thứ hai của bản văn trích dẫn vài lời khuyên bảo luân lý, mà một trong số đó cấu thành một trong những đỉnh cao Cựu Ước: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như yêu chính mình”.

4. “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”:

Huấn lệnh này, được đặt lại vào trong mạch văn của nó, không có tầm mức quy mô như Tân Ước sẽ ban cho nó: “tứ hãi giai huynh đệ”.

“Đồng loại”là tất cả thành viên của bộ tộc. Đây là một người Ít-ra-en. Toàn bộ đoạn văn liên quan đến những mối liên hệ xã hội ở bên trong cộng đồng. Chúng ta cũng gặp thấy “người anh em”, “người đồng hương”, “đồng bào”.

“Ngươi không được để lòng ghét người anh em”, “người anh em” chỉ một thành viên thuộc cùng dòng giống, cùng bộ tộc. “Ngươi phải mạnh dạn quở trách người đồng hương”, tức là một người Ít-ra-en. Vì thế, viễn cảnh bị thu hẹp lại ở nơi câu: “Ngươi phải yêu thương đồng loại như chính mình”.

Tuy nhiên, phải tiếp tục đọc chương này. Chúng ta đọc thấy ở câu 34: “Các ngươi phải đối xử với người ngoại kiều cư ngụ với các ngươi như với một người bản xứ, một người trong các ngươi; các ngươi phải yêu nó như chính mình”.

Ở đây có một sự triển khai luật yêu thương, chắc chắn còn trong những giới hạn của việc đồng hóa người ngoại kiều với một người Ít-ra-en, nhưng việc mở rộng được thực hiện. Chỉ thêm một bước nữa đạt đến một tình yêu mà Chúa Giê-su sẽ dạy và Ngài còn đi xa hơn nữa cho đến mức “phải yêu thương kẻ thù”.

Đức Giê-su sẽ kết hợp điều răn yêu người này với điều răn mến Chúa, điều răn này được gặp thấy trong một quyển sách khác của bộ “Ngũ Thư”, sách Đệ Nhị Luật (6: 5). Ngài ban cho hai điều răn này một tầm quan trọng như nhau và tập trung mọi Lề Luật vào trong hai điều răn này (Mt 22: 37-40; Mc 12: 29; Lc 10: 25-28). Ngài sẽ chứng mình hai điều răn này tương tự nhau khi đồng hóa mình với mỗi người bé nhỏ nhất: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25: 40). 

Cựu Ước đã không kết hợp hai điều răn này và cũng không đồng hóa Thiên Chúa với người đồng loại. Chính Đức Ki-tô, vừa Thiên Chúa vừa con người, thực hiện sự ngang bằng này.

BÀI ĐỌC II (1Cr 3: 16-23)

Bản văn này mang đến một câu kết luận cho ba lập luận của thánh Phao-lô, chứng minh cho các tín hữu Cô-rin-tô biết rằng những phân chia bè phái của họ dựa trên một ý tưởng sai lầm về Giáo Hội, một quan niệm lầm lạc về sự khôn ngoan Ki-tô giáo, một sự ngộ nhận về vai trò của các vị rao giảng.

Thánh Phao-lô vừa mới khai triển điểm thứ ba này. Ngài đã so sánh công việc của các nhà rao giảng với công việc của những kiến trúc sư: “Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó…”. Như vậy mỗi nhà rao giảng góp phần theo cách của mình vào việc xây dựng tòa nhà, tức là Đền Thờ Thiên Chúa, vì cộng đồng Ki-tô hữu không gì khác hơn một Đền Thờ ở đó Thiên Chúa ngự.

1. Anh em là Đền Thờ Thiên Chúa:

Thánh Phao-lô dùng từ “naos”, từ chỉ nơi cực thánh nhất, nơi Thiên Chúa ngự, nơi “ba lần thánh” của Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.

Hình ảnh này rất gần với hình ảnh “Thân Thể Đức Ki-tô” và thánh nhân dùng hai hình ảnh, lúc thì luân phiên, lúc thì liên kết với nhau. Khái niệm “Đền Thờ tinh thần” cắm rể sâu trong lịch sử của dân Ít-ra-en. Đức Chúa đã hứa với dân Ngài “Ngài sẽ ở giữa họ nếu họ tuân giữ các lề luật của Ngài” (Lv 26: 3-11). Kinh nghiệm về thời lưu đày ở Ba-by-lon, xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vả lại bị phá hủy, đã khích lệ các tín hữu trong tâm tình rằng sự hiện diện của Thiên Chúa giữa dân Ngài là một thực tại tinh thần. Không phải trước đó ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã loan báo rằng thời sẽ đến, vào thời đó tôn giáo sẽ được trở nên nội tâm hơn, thời Lề Luật sẽ được ghi khắc trong tâm khảm sao?

Sau cùng Đức Giê-su công bố rằng “thân thể của Ngài” là Đền Thờ mới, giờ đã đến, “giờ những người thờ phượng đích thật sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật” (Ga 4: 23).

Hệ luận của lời khẳng định: “đền thờ ấy chính là anh em” được diễn tả ngay lập tức: người Ki-tô hữu là “đền thờ của Thiên Chúa”“Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em”. Đây là chủ đề chính yếu của thần học thánh Phao-lô, đó là sự hiện diện của Chúa Thánh Thần ở nơi mỗi người Ki-tô hữu: thần học này phù hợp với những lời hứa của Đức Giê-su và ơn ban Thánh Thần vào ngày lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân lập lại thần học này ở dưới một chút: “Anh em lại chẳng biết rằng thân xác anh em là Đền Thờ của Thánh Thần sao? Mà Thánh Thần đang ngự trong anh em là Thánh Thần chính Thiên Chúa đã ban cho anh em” (1Cr 6: 19).

Đó là sự thánh thiện của cộng đoàn Ki-tô hữu vừa trong toàn thể vừa trong mỗi một thành viên. Làm nứt rạn tòa nhà bởi tinh thần bè phái và những chia rẽ nội bộ, đó chính là tội phạm thánh.

2. Sự khôn ngoan đích thật:

Thánh Phao-lô nhắc lại sự đối lập giữa sự khôn ngoan thế gian và sự khôn ngoan Thiên Chúa, mà thánh nhân đã khai triển ở trên: “Thật thế, lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ đối với những kẻ đang trên đà hư mất, nhưng đối với chúng ta là những người được cứu độ, thì đó là sức mạnh của Thiên Chúa. Vì có lời chép rằng: Ta sẽ hủy diệt sự khôn ngoan của kẻ khôn ngoan, và sẽ vứt bỏ sự thông thái của người thông thái” (1Cr 1: 18-19). Thánh nhân một lần nữa viện dẫn Kinh Thánh khi trích dẫn rất thoáng sách Gióp liên kết với một câu Thánh Vịnh 94.

Trong nỗi chán chường thất vọng, đối mặt với những quyền lực sự ác, ông Gióp diễn tả niềm tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa, Đấng cất nhắc kẻ hèn mọn, đem lại niềm hy vọng cho người phiền muộn, phá vỡ mưu đồ của hạng tinh khôn, bắt kẻ khôn ngoan bằng chính những xảo kế của chúng và đi trước mưu toan của phường xảo quyệt (G 5: 11-13). Thánh Phao-lô tóm tắt điều này khi nói rằng “Chúa bắt được kẻ khôn ngoan bằng chính mưu gian của nó”. Lời bình phẩm thì gay gắt: rõ ràng nó nhắm đến tính tự cao tự đại của những tín hữu Cô-rin-tô.

Tv 94 cũng là lời kêu gọi cứu giúp của những người công chính chống lại phường vô đạo: “Tâm tưởng kẻ khôn ngoan: Chúa đều biết cả. Thật chỉ như cơn gió thoảng ngoài”.

3. Những vị rao giảng của anh em là những người phục vụ mọi người:

Những chia rẽ của các tín hữu Cô-rin-tô đối với những vị rao giảng của họ chứng tỏ rằng họ không là những người khôn ngoan. Không được phép nói: “tôi thuộc về Phao-lô, hay A-pô-lô, hay Kê-pha”, vì có một sự đảo lộn: dù Phao-lô, A-pô-lô hay Kê-pha đều thuộc về anh em, họ là những người phục vụ cộng đoàn Ki-tô hữu, họ hiến dâng bản thân mình cho mỗi người và cho mọi người.

4. Tất cả đều thuộc về anh em:

Thánh Phao-lô chuyển đổi ngạn ngữ Hy-lạp, thường được các triết gia phái Khắc Kỷ lập lại: “Tất cả đều thuộc về hiền nhân”. Hiền nhân là người biết, hiểu, gắn bó với trật tự vũ trụ, vừa lý tính vừa thần linh. Người Ki-tô hữu cũng là người biết và còn biết hơn nữa, vì Đức Ki-tô đã mặc khải ý định Thiên Chúa về nhân loại: người Ki-tô hữu cũng nắm giữ ý nghĩa “sự sống và sự chết, hiện tại hay tương lai”. Thánh Phao-lô thường ca ngợi sự hiểu biết cao cả này của người Ki-tô hữu: người Ki-tô hữu không phải cậy dựa vào con người nhưng phải đặt trọng tâm cuộc đời mình vào Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Mt 5: 38-48)

Bản văn Mát-thêu này tiếp nối bản văn Chúa Nhật trước. Trong chiều hướng kiện toàn lề luật, Đức Giê-su tiếp tục đối chiếu những huấn lệnh Mô-sê với luật yêu thương mà Ngài thiết lập. Hai ví dụ mới được đưa ra để đối chiếu: luật “răng đền răng mắt đền mắt” và luật “yêu thương đồng loại của mình như chính mình”.

1. Luật báo thù:

“Anh em đã nghe Luật dạy: Mắt đền mắt, răng đền răng”. Chúa Giê-su trích dẫn luật Cựu Ước, được phát biểu trong sách Xuất Hành (21: 24) và được lập lại trong sách Lê-vi (24: 19-20). Vào thời Đức Ki-tô, luật này chỉ được áp dụng vào những trường hợp sát nhân: “mạng đền mạng”.

Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” này đã có công dụng là kềm hãm sự báo thù quá mức vào thời man rợ. Chúng ta thử đọc lại bài ca báo thù được trích trong sách Sáng Thế: “Vì một vết thương, ta đã giết một người, vì một chút sây sát, ta đã giết một đứa trẻ. Ca-in sẽ được báo thù gấp bảy, nhưng La-méc thì gấp bảy mươi bảy!” (St 4: 23-24).

Luật “mắt đền mắt, răng đền răng” đã giới hạn nghiêm nhặt giữa sự xúc phạm và sự trả thù. Luật này chỉ có thể áp dụng vào những trường hợp gây thương tích về phương diện thể lý; nhưng trong việc thực hành, luật này thường tỏ ra khó áp dụng. Những đền bù bằng tiền bạc dần dần được thay thế, ngoại trừ trường hợp sát nhân.

Khi trích dẫn luật xưa, Đức Giê-su muốn nói rằng không còn “ăn miếng trả miếng” nữa; Ngài biết rằng ước muốn trả thù vẫn sống động trong tâm trí con người. Ấy vậy, Ngài đòi hỏi rằng người ta không buông theo ước muốn này, đừng tìm cách báo thù. Thái độ từ chối báo thù này đã được các hiền nhân Cựu Ước phác họa rồi. Hiền nhân Ben Xi-ra viết: “Kẻ báo thù sẽ chuốc lấy báo thù của Đức Chúa…Hãy nhớ đến các điều răn mà đừng oán hờn kẻ khác, nhớ đến giao ước của Đấng Tối Cao mà không chấp nhất điều lầm lỗi” (Hc 28: 1-7). Sách Châm Ngôn viết: “Bạn đừng nói: ‘Tôi sẽ báo thù!’ Hãy cậy trông Đức Chúa, Người sẽ cứu bạn” (Cn 20: 22).

Đức Giê-su còn đi xa hơn các hiền nhân Cựu Ước, Ngài muốn rằng con người lấy thiện báo ác, lấy tình yêu đáp lại hận thù. Ngài dùng những biểu thức rất đập mắt và tương phản để diệt tận căn ước muốn báo thù:

“Nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa. Nếu ai muốn kiện anh để cướp lấy áo trong, thì hãy cho nó lấy cả áo ngoài”. Áo trong và áo ngoài là y phục chính yếu Đông Phương. Áo ngoài còn cần thiết hơn áo trong: đây là chăn mền của người nghèo để ủ ấm vào ban đêm. Luật cấm giữ lại áo ngoài qua đêm. Vì thế, cử chỉ Đức Giê-su đòi hỏi thật đặc biệt có ý nghĩa.

“Nếu có người bắt anh đi một dặm, thì hãy đi với người ấy hai dặm”. Động từ được dùng ở đây, theo nghĩa đầu tiên của nó, có nghĩa “ trưng dụng phương tiện chuyên chở”, tiếp đó được mở rộng đến mọi công việc phục dịch. Xem ra chính nghĩa này phải giữ lại, bởi vì cốt là dặm đường phải đi. Người có quyền “trưng dụng” chắc hẳn là một binh lính hay quan chức Rô-ma. Quả thật, động từ này lại xuất hiện trong Tin Mừng Mát-thêu khi những người lính Rô-ma “trưng dụng” ông Si-mon thành Si-rê-nê vác đỡ thập giá với Đức Giê-su.

“Ai xin, thì hãy cho; ai muốn vay mượn, thì đừng ngoảnh mặt đi”. Luật truyền thống muốn rằng của bố thí và việc cho vay không lấy lãi chỉ được dành cho những thành viên của đại gia đình Ít-ra-en, chứ không người ngoại kiều. Hơn nữa, năm sa-bát – cứ bảy năm một lần – bao gồm việc tha nợ nần. Như vậy, những quy luật được thông qua ở bên trong cộng đồng.

Đức Giê-su muốn rằng những cử chỉ này phải ban cho hết mọi người, không phân biệt dòng giống hay tôn giáo. Luật bác ái mới không có biên giới.

2. Yêu thương kẻ thù:

Trong Lề Luật, không có nơi nào viết rằng “ngươi phải ghét kẻ thù ngươi” cả. Động từ “ghét” này chỉ cốt làm tương phản với động từ “yêu thương”, theo một cặp đối lập rất tâm đắc với ngôn ngữ sê-mít. Sự đối lập này được gặp thấy trong Luật Cộng Đồng Qum-ran: “Ngươi phải yêu thương con cái Ánh Sáng, nhưng ghét con cái Bóng Tối”. Dù sao đi nữa, cặp đối lập này trình bày một tâm thức nào đó. Chúng ta đọc thấy trong các sách Minh Triết: “Hãy cho người đạo hạnh, nhưng đừng giúp kẻ tội lỗi. Hãy xử tốt với người khiêm tốn, và đừng ủng hộ quân vô đạo, hãy khước từ, đừng cung cấp bánh ăn cho nó…Đừng bao giờ tin vào thù địch…” (Hc 12: 4-5, 10).

Người Do thái ghét cay ghét đắng người Sa-ma-ri, bêu xấu người thu thuế, anh em đồng đạo của mình cộng tác với quân chiếm đóng và chẳng bao giờ có những mối tương quan bạn hữu với người ngoại giáo.

Luật đức ái phải lật đổ những thái độ như thế. Sách Lê-vi dạy yêu thương đồng loại của mình, nhưng quan niệm đồng loại bị hạn chế vào đồng bào của mình. Đức Giê-su mở rộng cho đến hết mọi người. Khuôn mẫu của tình yêu này là mẫu gương của Cha trên trời, Đấng ban cho hết mọi người, kẻ xấu cũng như người tốt, ơn vũ lộ chan hòa.

“Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho nhũng kẻ ngược đãi anh em”. Vào lúc thánh Mát-thêu ghi lại những lời này, chúng có một âm vang bi thảm. Đây là thời kỳ Hội Đường chống lại Giáo Hội tiên khởi không chút xót thương. Những Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh Mát-thêu ngỏ lời, phải chịu những phiền nhiễu thậm tệ từ phía những anh em xưa kia của mình.

Dù thế, những môn đệ Đức Ki-tô phải rộng mở vòng tay nhân ái với hết mọi người, ngay cả với những kẻ ngược đãi và bách hại họ. Đức Giê-su đòi hỏi họ tính anh hùng này và kêu gọi họ hãy nên hoàn thiện, ngôn từ ở đây nhắc nhớ “Luật Thánh Thiện” của sách Lê-vi. Đức Chúa phán: “Các ngươi phải thánh thiện, vì Ta là Đấng Thánh”. Đức Giê-su phán: “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, là Đấng hoàn thiện”

Tác giả: Lm Hồ Thông HT68.

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập739
  • Máy chủ tìm kiếm3
  • Khách viếng thăm736
  • Hôm nay145,005
  • Tháng hiện tại1,057,269
  • Tổng lượt truy cập57,158,906
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây