CN 5 TN A (Giải thích Lời Chúa).

Thứ sáu - 04/02/2011 05:53

Ánh sáng.

Ánh sáng.
Ý tưởng chủ đạo liên kết ba bài đọc là sức mạnh của lời chứng: sức mạnh này làm cho người tín hữu trở thành con người của ánh sáng, và qua sự yếu đuối của phàm nhân, chứng thực quyền năng Thiên Chúa.

CHÚA NHẬT V THƯỜNG NIÊN

Lm Hồ Thông

Ý tưởng chủ đạo liên kết ba bài đọc là sức mạnh của lời chứng: sức mạnh này làm cho người tín hữu trở thành con người của ánh sáng (bài đọc I và Tin Mừng) và qua sự yếu đuối của phàm nhân, chứng thực quyền năng Thiên Chúa (bài đọc II).

Is 58: 7-10

Bản văn này được trích từ I-sai-a đệ tam, vị ngôn sứ của thời hậu lưu đày (sau năm 538 trước Công Nguyên). Vị ngôn sứ nhắn nhủ họ hãy thực thi đức ái huynh đệ, quan tâm đến những người không nơi nương tựa, những người khố rách áo ôm, những người đói ăn, đó là điều kiện trở thành một dân chiếu giải ánh sáng Thiên Chúa.

1Cr 2: 1-5

Thánh Phao-lô nhắc lại cho các tín hữu Cô-rin-tô những tình cảm yếu đuối và sợ hãi khi thánh nhân đến với họ sau khi thánh nhân vừa mới chịu sự thất bại ở A-thê-na: sự khôn ngoan của Tin Mừng đã đụng chạm đến sự khôn ngoan phàm nhân. Nhưng tình cảm yếu đuối và sợ hãi này lại bày tỏ sức mạnh của Thần Khí ở nơi  sứ mạng gian khó của thánh nhân, đó là làm chứng cho Đức Ki-tô chịu đóng đinh.

Mt 5: 13-16

Trong Tin Mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su khuyên các môn đệ Ngài hãy làm chứng niềm tin của họ: như vậy, họ sẽ đem đến một vị mặn thần linh cho những sự vật trần thế và sẽ trở nên ánh sáng cho thiên hạ.

BÀI ĐỌC I (Is 58: 7-10)

Bản văn tuyệt đẹp này xem ra thuộc thời kỳ những người lưu đày ở Ba-by-lon trở về Giê-ru-sa-lem (năm 538 trước Công Nguyên). Tác giả chắc chắn là một môn đệ của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị, nên được gọi ngôn sứ I-sai-a đệ tam.

1. Cách ăn chay mà Chúa ưa thích là thực hành đức ái:

Giáo Hội chủ ý mời gọi chúng ta suy niệm bản văn này để chuẩn bị bước vào Mùa Chay Thánh. Quả thật, vào Mùa Chay Thánh, các tín hữu được khuyên nên tuân giữ việc thực hành chay tịnh và sám hối trong khi mong chờ Thiên Chúa thi ân giáng phúc.

Vị ngôn sứ tố cáo một thái độ như thế: những cử chỉ khổ hạnh này chỉ là công việc đạo đức vô giá trị và phi nhân nếu không đi kèm theo việc thực hành đức ái: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước những anh em cốt nhục?”.

2. “Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông”:

Vị ngôn sứ sánh ví những thành quả của đức ái với ánh mặt trời vào lúc rạng đông. Trong những xứ sở Phương Đông ánh bình minh là một yếu tố thiết yếu của sự sống thường ngày. Ánh bình minh đồng nghĩa với hạnh phúc, niềm vui, thịnh vượng. “Ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông”, đây sẽ là một ngày mới, một đời sống mới thực sự: đời sống mới không chỉ về luân lý, nhưng còn thể lý: “Vết thương ngươi sẽ mau lành”, nghĩa là sức lực sẽ phục hồi nhanh chóng.

3. Thiên Chúa lắng nghe người thực thi đức ái:

 Nhịp điệu của bài thơ tăng dần: “Bấy giờ, ngươi kêu lên, Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu, Người liền đáp lại: ‘Có Ta đây!”. Đây là cách thức diễn tả cuộc đối thoại thường hằng giữa Thiên Chúa và người công chính. Chỉ những ai thực thi đức ái, thì lời cầu nguyện của họ mới đáng được Thiên Chúa đoái thương chấp nhận, bởi vì một khi chúng ta biết chia cơm sẻ áo với anh em của mình, thì lúc đó trái tim của chúng ta mới cùng chung nhịp đập với trái tim của Thiên Chúa, Đấng tự đồng hóa mình với những con người khốn khổ này. Đó mới thật sự là những hành vi phụng thờ mà Thiên Chúa muốn, vì những hành động đức ái tôn vinh Thiên Chúa hơn những lễ vật toàn thiêu với những lễ nghi trọng thể.

Vị ngôn sứ một lần nữa liệt kê những cử chỉ đức ái và một lần nữa sánh ví thành quả của chúng với thành quả của ánh sáng, nhưng lần này với ánh sáng nội tâm: “Bóng tối của ngươi chẳng khác nào chính ngọ”.

BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 1-5)

Bản văn này được trích ngay liền sau bản văn mà chúng ta đã đọc vào Chúa Nhật tuần trước và được định vị vào trong cùng một hàng lập luận.

1. Quyền năng Thiên Chúa được bày tỏ ở nơi sự yếu đuối:

Thánh Phao-lô tiếp tục nói về sự khôn ngoan Thiên Chúa và sự khôn ngoan phàm nhân. Thánh nhân giải thích cho các tín hữu Cô-rin-tô, sự khôn ngoan Thiên Chúa được bày tỏ qua những người khiêm hạ, điều này được kiểm chứng bởi muôn ân sủng mà họ nhận được.

Bản thân thánh nhân là một trong những ví dụ đó. Khi đến với họ, thánh nhân đã cảm thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy, và chẳng có lời lẽ hùng biện. Chẳng phải sự hùng biện phải câm nín khi loan báo một Đức Ki-tô chịu đóng đinh sao? Thánh Phao-lô thích nhấn mạnh sự tương phản giữa sự yếu kém của ngài về phương tiện cũng như về lời rao giảng. Thánh nhân muốn công bố rằng “quyền năng Thiên Chúa được thực hiện ở nơi sự yếu đuối” (2Cr 12).

Đừng hiểu “sợ sệt và run rẩy” theo nghĩa đen, đây là sáo ngữ. Chúng ta gặp lại diễn ngữ này trong thư thứ hai của thánh nhân gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô. Thánh Phao-lô gợi lên việc các tín hữu này đã đón tiếp nồng hậu người cộng tác viên của ngài, ông Ti-tô, khi viết: “Lòng anh ấy càng tha thiết quý mến anh em, khi nhớ lại anh em đã vâng lời, đã kính sợ và run rẩy đón tiếp anh” (2Cr 7: 15); đây là cách diễn tả thái độ khiêm tốn và kính trọng. Dẫu rằng vào lúc đó thánh nhân có nhiều lý do để lo lắng: những vết thương của việc đánh đòn mà thánh nhân đã chịu ở Phi-líp-phê chưa lành hẳn, những quấy nhiễu của người Do thái ở Thê-xa-lô-ni-ca đã buộc thánh nhân phải trốn chạy, cách tiếp đón lạnh nhạt của dân thành A-thê-na vừa mới đây.

2. Hậu cảnh: cuộc thất bại ở A-thê-na:

Thánh nhân đã đến Cô-rin-tô vào năm 50 từ A-thê-na ở đó ngài đã nếm mùi thất bại. Ở nơi đỉnh cao của sự khôn ngoan và triết học, lời rao giảng của thánh nhân đã không được mọi người hiểu. Sứ điệp của Đức Ki-tô đã không dể dàng hòa nhập vào giữa những suy luận ngoại giáo, thậm chí bằng những lời lẽ hùng hồn. Vì thế, ở Cô-rin-tô, thánh nhân sử dụng một phương pháp khác.

Thánh nhân không dùng “lời lẽ khôn ngoan để thuyết phục”, nhưng để cho Thần Khí hoạt động qua những lời đơn sơ giản dị của mình và thái độ khiêm hạ của mình.

Đừng nghĩ rằng thánh nhân kết án sự hùng biện: thánh nhân mượn ở nơi nghệ thuật này biết bao điều tốt đẹp, cũng không sự khôn ngoan phàm nhân: thánh nhân ca ngợi đức điều độ của người Hy-lạp. Nhưng thánh nhân kết án sự khôn ngoan khi mà nó tự phụ áp dụng những tiêu chuẩn của mình vào một sứ điệp vượt quá nó. Đây là điều mà những người Hy lạp này với tinh thần tinh tế xem ra đối xử Tin Mừng như một sự chọn lựa theo lẽ khôn ngoan phàm nhân hay lời dạy của nhà hùng biện.

TIN MỪNG (Mt 5: 13-16)

Bản văn này tiếp liền sau sứ điệp về các Mối Phúc. Chính khi sống các mối phúc này mà các môn đệ sẽ là “muối cho đời”“ánh sáng cho trần gian”.

Hai dụ ngôn này là hai cách khác nhau diễn tả cùng một thực tại: các môn đệ và sau họ những Ki-tô hữu phải đóng một vai trò đặc biệt trong xã hội, vai trò của họ cũng cần thiết như muối hay ánh sáng. Hai hình ảnh muối và ánh sáng này phối hợp với nhau theo từng chi tiết, được mượn ở cuộc sống thường ngày như Đức Giê-su thường làm như vậy.

1. Muối cho đời:

Muối thấm vào thực phẩm để giữ cho thức ăn khỏi hư thối và tăng thêm hương vị cho các thức ăn; vì thế, muối biểu tượng tính bền vững của hiệp ước, tức muối Giao Ước. Mc 9: 50 gợi lên biểu tượng này của muối: “Anh em hãy giữ muối trong lòng mình, và sống hòa thuận với nhau”. Dâng hiến “bánh và muối”, chính là kết nghĩa huynh đệ, ký kết một giao ước. Sách Dân Số 18: 19 nói về “giao ước muối” để nói về một giao ước muôn đời bền vững. Sách Huấn Ca nói về muối là một trong những thứ cần thiết nhất cho sự sống (Hc 39: 26).

Chúa Giê-su muốn ám chỉ đến phẩm chất nào trong số những phẩm chất của muối? Khó mà biết được. Rõ ràng nhất là Ngài nghĩ đến sự hiện diện tiểu số của người Ki-tô hữu. Bản chất của muối là ướp mặn, thêm hương vị cho thức ăn cho dù nó bị hòa tan vào bất cứ thứ gì. Trong đống bột nhân loại bao la, người Ki-tô hữu phải như một nhúm muối đem lại vị mặn mà của Thiên Chúa cho đời. Họ là những người mang sứ điệp không đến từ thế giới này, những người truyền đạt sự khôn ngoan Thiên Chúa đang hoạt động ở lòng nhân loại. Nếu sự hiện diện của người Ki-tô hữu trong trần gian chẳng ướp mặn cho đời khỏi biến chất thì cũng như “muối nhạt đi, chẳng lấy gì mà  muối nó cho mặn lại”.

2. Ánh sáng cho trần gian:

Sau này, Chúa Giê-su sẽ công bố mình là “ánh sáng thế gian”; nhưng, ngay từ bây giờ, Ngài ban phẩm chất này cho các môn đệ Ngài: “Chính anh em là ánh sáng thế gian”. “Ánh sáng thế gian” là diễn ngữ Kinh Thánh. Các ngôn sứ đã cho dân Ít-ra-en một sứ mạng là “ánh sáng cho muôn dân muôn nước”, làm chứng về một Thiên Chúa chân thật “cho đến tận những hải đảo xa xăm”, tức là “cho đến tận cùng thế giới”. Từ nay vai trò này là vai trò của Giáo Hội.

Đoạn, một lần nữa, Chúa Giê-su minh họa bằng hai hình ảnh cụ thể. Trước hết “thành xây trên núi không tài nào che dấu được”. Giáo huấn của Đức Giê-su luôn luôn cụ thể, vì thế, xem ra vào lúc này Chúa Giê-su đưa ngón tay chỉ một thành phố tọa lạc trên ngọn đồi xứ Ga-li-lê, mà những căn nhà sơn trắng lấp lánh dưới ánh mặt trời, dù đứng từ xa, mọi người đều nhìn thấy. Người ta nghĩ đến thành phố Safed ở độ cao 1050 mét, phía trên thành Ca-phác-na-um. Hình ảnh này nêu bật tư cách của Giáo Hội Chúa Ki-tô cho tất cả mọi người.

Hình ảnh thứ hai là về một cái đấu có dung tích khoảng mười hai lít ngũ cốc mà hầu như nhà nào cũng có. Nhiều gia đình nghèo dùng cái đấu này làm đế đèn trên đó người ta đặt ngọn đèn để ánh sáng được lan tỏa khắp nhà. “Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giải trước mắt thiên hạ”. Đây không phải là vai trò phô trương mà Chúa Giê-su đòi hỏi ở nơi các môn đệ Ngài, nhưng phải chiếu giải ánh sáng của Thiên Chúa bằng những công việc tốt đẹp họ làm. Giáo Huấn của Ngài gặp lại giáo huấn của vị ngôn sứ : những công việc tốt lành của các tín hữu bừng lên ánh sáng chẳng khác nào hừng đông xuất hiện. Lúc đó, những ai nhìn thấy ánh sáng này “sẽ tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời”. Những lời này loan báo kinh Lạy Cha, chẳng bao lâu sẽ được Ngài dạy cho các môn đệ Ngài.

Người Ki-tô hữu là muối mặn cho đời và là ánh sáng trần gian. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người Ki-tô hữu phải là người gieo rắc niềm vui. 

Tác giả: Lm Hồ Thông.

Nguồn tin: Gia đình Cựu Chủng sinh Huế

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập588
  • Máy chủ tìm kiếm2
  • Khách viếng thăm586
  • Hôm nay91,605
  • Tháng hiện tại928,157
  • Tổng lượt truy cập57,029,794
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây