Những kỷ niệm còn lại trong tôi.

Thứ tư - 14/11/2012 09:10

-

-
Tôi gặp Ðức Cố Hồng Y lần đầu tiên lúc tôi học lớp Première nội trú tại Trường Thiên Hữu (Providence) Huế năm 1966. Đầu niên học 1966- 1967, Linh Mục hướng dẫn hai lớp Première và Seconde của Nha Trang là cha René Gantier mời Cha Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận giảng tĩnh tâm ba ngày cho hai lớp chúng tôi.
Những kỷ niệm còn lại trong tôi
 
Đức Giám Mục Marcel Piquet Lợi được Chúa gọi về ngày 11-7-1966 sau hơn 50 năm phục vụ trên cánh đồng truyền giáo tại Việt Nam. Năm 1966 Giáo phận Nha Trang chưa có Giám Mục mới, Tiểu Chủng Viện Sao Biển vẫn đang giữ chương trình Pháp và thiếu các giáo sư chuyên môn, Linh Mục Nhiếp Chính Gauthier Báu, Hội đồng Linh Mục Địa Phận và Ban Giám Đốc Tiểu Chủng Viện quyết định gởi hai lớp Première và Seconde niên khóa 1966-1967 ra ở nội trú Trường Providence (Thiên Hựu) Huế. Khi ấy Cha Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận là Giám Ðốc Tiểu Chủng Viện Hoan Thiện. 
 
Tôi gặp Ðức Cố Hồng Y lần đầu tiên lúc tôi học lớp Première nội trú tại Trường Thiên Hữu (Providence) Huế năm 1966. Đầu niên học 1966- 1967, Linh Mục hướng dẫn hai lớp Première và Seconde của Nha Trang là cha René Gantier mời Cha Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận giảng tĩnh tâm ba ngày cho hai lớp chúng tôi. Sau ba ngày nghe giảng, suy gẫm, huấn đức, tham dự thánh lễ, tôi chỉ còn nhớ được một chuyện. Ðó là định nghĩa của ngài về hai chữ KINH NGHIỆM.
 
Tôi không nhớ đề tài này ngài giảng vào ngày thứ mấy, buổi sáng hay chiều của ba ngày tĩnh tâm.  Vào đề, ngài hỏi chúng tôi: “Kinh nghiệm là gì?”. Chúng tôi thinh lặng không đứa nào mở miệng.  Và cuối cùng ngài thao thao đưa ra định nghĩa của ngài: “kinh nghiệm là dại đi một lần, và không có cái dại nào giống cái dại nào, dại hoài, dại mãi, dại suốt cuộc đời. Ðó là định nghĩa của hai chữ kinh nghiệm”. 
 
Suốt ba ngày tĩnh tâm tôi chỉ còn nhớ có bấy nhiêu. Chỉ nhớ duy nhất một định nghĩa hóm hỉnh, hay hay, và đầy thâm thúy này. Ðịnh nghĩa này nó lúc nào cũng ám ảnh tôi những khi tôi làm sai điều gì, những khi tôi làm điều gì lầm lỡ, nhất là những lúc tôi thất bại chuyện gì. Nó luôn luôn theo tôi suốt 37 năm qua cho đến ngày hôm nay. Mỗi khi nói chuyện với ai, với bạn bè, với những người gặp tôi chia sẻ, tâm tình kinh nghiệm trường đời hay đời sống thiêng liêng, thành công hay thất bại, vui hay buồn, tôi đều kể lại  định nghĩa này. Nó trở thành một bài học sống động trong mấy chục năm qua của tôi. Mỗi lần thất bại hay làm sai điều gì tôi đều bằng lòng chấp nhận hậu quả sự việc, tự an ủi mình và tự nhắc nhủ “đó là một kinh nghiệm, đó là một bài học để lần sau mà tránh, không lập lại nữa”. Và với ý thức đó mỗi lần thất bại tôi không thấy làm tủi nhục, buồn khổ, thất vọng. Và lúc ấy câu tục ngữ “thất bại là mẹ thành công, thua keo này bày keo khác” lại đến với tôi và tôi lại cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Ðể rồi lại hăng say lao đầu vào một hoạt động dại dột mới...
 
Ngày 4-5-1967 Cha Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận được Tòa Thánh đặt làm giám mục chính tòa giáo phận Nha Trang và vì trường Thiên Hữu không đủ học sinh để mở lớp Terminale, nên lớp chúng tôi mười đứa, được ngài gởi lên ở Ðại Học Xá Viện Ðại Học Ðàlạt, và đi học lớp Terminale tại Trung Học Adran. Ngài sắp xếp Viện Ðại Học cho một chiếc xe đưa đón chúng tôi đi học, vì từ Ðại học Xá đến Trung học Adran xa khoảng 4 hoặc 5 cây số. Lâu lâu ngài lên Ðà lạt thăm 10 đứa chúng tôi, mỗi lần lên, ngài đem cho chúng tôi vài ký mực khô cho chúng tôi nướng rồi cha con nhâm nhi trò chuyện với nhau.
 
Ðối với ngài từ sau lần gặp gỡ đầu tiên qua ba ngày giảng tĩnh tâm, tôi cảm thấy rất gần gũi thân tình, chứ không xa cách “kính nhi viễn chi” như đối với Ðức Giám Mục tiền nhiệm Marcel Piquet. Mỗi lần gặp giám mục thường người công giáo chúng ta phải quì xuống hôn nhẫn. Khi gặp Ðức Cố Hồng Y, tôi cũng quì xuống hôn nhẫn ngài, nhưng tôi chưa kịp quì xuống là ngài kéo tôi đứng dậy và bắt tay, mặc dầu trước đó ít phút, tôi thấy linh mục giám đốc tiểu chủng viện hay linh mục quản hạt hoặc linh mục tổng đại diện địa phận quì xuống hôn nhẫn ngài. Ðây cũng là điều làm tôi ngạc nhiên không ít trong buổi tiếp xúc đầu tiên khi ngài làm giám mục Nha Trang. Nó cũng làm tôi tự đặt câu hỏi ‘tại sao’ trong đầu tôi và tôi vẫn nhớ mãi trong suốt 36 năm qua. Cũng vì cử chỉ này tôi cảm thấy gần gũi ngài hơn cả với các vị cộng tác viên của ngài như các linh mục tổng đại diện, giám đốc chủng viện hay linh mục hạt trưởng. Ðối với các vị này tôi luôn “kính nhi viễn chi”, còn đối với ngài, vị giám mục địa phận thì tôi lại cảm thấy gần gũi thân tình như cha với con.
 
Thái độ này của tôi đối với ngài nó vẫn luôn thoải mái thân tình suốt thời gian ngài làm giám mục địa phận Nha Trang. Mỗi lần có điều thắc mắc, hay muốn xin điều gì thì tôi thoải mái nói thẳng không ấp úng e ngại gì. Khi ngài về Sàigòn, đi tù, rồi sau này gặp lại tại Úc thì có chút thay đổi, có thể vì tôi đã thay đổi nhiều, không còn là chủng sinh, đã lập gia đình và không còn chung một con đường đặc biệt ấy nữa chăng nên tôi mặc cảm hoặc không có nhiều dịp gần gũi ngài vì ngài cũng đã thay đổi nhiều với những công việc bận rộn hơn tại Roma, rồi với chức vụ Hồng Y có thể càng làm tôi không còn dịp để liên lạc hoặc gặp gỡ với ngài nữa.
 
Một kỷ niệm để đời khác của tôi với ngài là năm 1968, sau khi tốt nghiệp Trung học đệ nhị cấp (Baccalauréat De L’Enseignement Secondaire) tôi đã hân hạnh được ngài đã đến tận giáo xứ dâng lễ và trao cho tôi và người bạn cùng lớp chiếc áo dòng đen (soutane). Và sau đó hai đứa chúng tôi lại được gửi lên học tại Giáo Hoàng Học Viện Ðà Lạt cùng với một anh em khác.  Ðây cũng là một vinh dự cho ba anh em cùng lớp chúng tôi, vì thường thường mỗi năm mỗi giáo phận chỉ được gửi hai chủng sinh.
 

Nha Trang, 1968 ngày nhận áo Soutane Hồ Trí Thức, Đức GM NVT, Cha Xứ BMH, Nguyễn Đăng Khoa                                                      
 
Sang năm thứ hai lớp chúng tôi phải làm một tháng ‘linh thao’ (Exercises spirituels) kiểu Dòng Tên với cha linh hướng Paul Deslierres. Sau một tháng, tôi cảm thấy bối rối về ơn thiên triệu của tôi, tôi thấy 50% tôi có ơn gọi, 50% tôi cảm thấy lo sợ cho cuộc sống độc thân linh mục. Làm linh mục thì dễ, tôi chỉ cần chăm chỉ học hành, ngoan ngoãn giữ mọi việc học viện đòi hỏi thì cuối năm 1976 tôi sẽ tốt nghiệp khoá đào tạo. Nhưng sau đó thì sao? Liệu tôi có sống trọn vẹn cuộc sống độc thân được không vì năm đó tôi nghe nói có khoảng 2000 linh mục bên Âu châu đang nộp đơn xin Giáo hội cho lập gia đình, một số khá đông rời bỏ chức linh mục. Dòng Chúa Cứu Thế tại Việt Nam lúc đó bắt đầu phong trào Vào Ðời, Dòng Phan Xi Cô cũng cho anh em chủng sinh về Cầu Muối Sàigòn ở chung với nhau và đi học đại học, đi làm việc một thời gian trước khi tiếp tục học thần học.
 
Lúc đó tôi gặp cha linh hướng và trình bày sự quan tâm của tôi và đưa ra một vài suy nghĩ riêng tư và hỏi ý kiến ngài. Cuối cùng tôi đã vạch cho tôi một hướng đi hơi phiêu lưu mà chưa một chủng sinh nào đã đi qua. Tôi không muốn đi “thử” (probation) một vài năm tại một trường trung học hay một giáo xứ trong chiếc áo dòng đen, vì tôi nghĩ rằng tôi vẫn phải sống gò bó trong chiếc áo dòng và chẳng có gì là thử thách.
 
Tôi cũng không muốn đi “thử tự do” (probation libre), vì tuy không mặc áo dòng, nhưng mọi người và chính bản thân tôi, tôi cũng phải luôn nhớ rằng tôi là một đại chủng sinh. Tôi cũng không ‘happy’ với con đường này. Tôi nghĩ ra một con đường thứ ba, chưa thấy anh em chủng sinh nào từng đi qua, nhưng tôi cảm thấy thú vị và phiêu lưu hơn. Tôi muốn ra đi, ra đi ‘bụi đời’ một thời gian để thử xem mình có bản lãnh sống độc thân không. Tôi muốn ra đi nhưng không hẹn ngày trở lại. Chính những ngày, tháng, năm ấy sẽ quyết định tôi có trở lại hay không.
 
Tôi đã đưa việc này bàn thảo với cha linh hướng, nhưng ngài bảo tôi điều này tôi phải bàn với giám mục của tôi. Thế là cuối tháng ba năm 1970, tôi tức tốc lấy vé máy bay, bay về Nha Trang để gặp Ðức Giám Mục. Theo tôi biết lúc ấy các Giám Mục Việt Nam rất khó khăn trong vấn đề này, và tôi chưa thấy có trường hợp chủng sinh nào được phép làm như vậy. Sau khi trình bày với Ðức Cha Thuận trường hợp của tôi, ngài ôn tồn nói với tôi con cứ việc làm như con đã nghĩ và khi nào muốn trở lại tiếp tục thì gặp ngài. Tôi thật vui mừng vì ý định của tôi đã được chấp thuận. Tôi ở lại Nha Trang tham dự Khóa 3 ngày tĩnh tâm Cursillo (5-4-1970).
 
Tôi trở lại học viện giữa Tháng Tư năm 1970, gặp lại cha linh hướng và chuẩn bị dọn ra khỏi học viện. Ðối với Viện Trưởng học viện, các vị giáo sư, các anh em chủng sinh, các linh mục trong địa phận và nhất là gia đình tôi, thì tôi cho biết là tôi không còn là chủng sinh nữa. Ðiều này đã làm nhiều người ngạc nhiên về quyết định của tôi, riêng gia đình tôi, cha mẹ,các em và những người bà con thì rất buồn. Tôi đã ra ngoài ở trọ, tìm việc làm và học tại Viện Ðại Học Ðàlạt một năm, rồi chuyển về Ðại Học Văn Khoa Sàigòn vì cảm thấy Ðà Lạt quá bé nhỏ. 
 
Sau khi vùng vẫy hoạt động với Phong Trào Thanh Niên Công Giáo Ðại Học trong môi trường đại học, Hội Ái Hữu Lớp Dự Bị Hôn Nhân của Trung Tâm Gia Ðình Mục Vụ DCCT, Phong trào Focolare, dạy học tại các trường Trung Học Nguyễn Bá Tòng Sàigòn, Lê Bảo Tịnh, kèm cho các học sinh chương trình Pháp lớp Troisième, năm 1973  tôi học xong cử nhân giáo khoa triết Tây ở đại học Văn Khoa Sàigòn và cảm thấy mình có khả năng sống độc thân được 75%, 80%, tôi lại gặp lại Ðức Cha Thuận và cho ngài biết tôi có ý định tiếp tục trở lại Giáo Hoàng Học Viện Ðàlạt.
 
Nhưng lúc ấy ngài lại mở cho tôi một cơ hội khác, ngài muốn cho tôi đi Phi Luật Tân 6 tháng tu nghiệp tại trung tâm Phong Trào Focolare tại Manila, rồi qua Loppiano Ý Ðại Lợi hai năm rồi học thêm vài năm, sau đó trở về Việt Nam làm việc trong Phong Trào Tông Ðồ Giáo Dân của Giáo Phận. Nhưng sau khi gặp LM Tiến Sĩ Nguyễn Hưng, Giáo Sư Ngữ Học tại Văn Khoa Sàigòn, mới từ Pháp về, hỏi ý kiến ngài, tôi lại quyết định xin Đức cha trở lại Giáo Hoàng Học Viện tiếp tục học thần học rồi sau khi ra trường sẽ đi du học sau. Nhưng mọi sự đã thay đổi với biến cố 30 Tháng Tư năm 1975. Bây giờ thỉnh thoảng khi nghĩ lại quá khứ, tôi không biết có nên tiếc nuối vì đã mất một cơ hội tốt hay không.
 
Năm 1971, 1972, 1973 lúc còn ở Sàigòn, thỉnh thoảng tôi ghé lại văn phòng Tái Thiết Việt Nam (COREV) tại 123 Huyện Thanh Quan, những lúc đến thăm Ðức Cha, ngài đã đưa cho tôi một vài cuốn sách về Phong Trào FOCOLARE, một cuốn đã ảnh hưởng tôi không ít trong cuộc sống của tôi cho đến ngày hôm nay, đó là cuốn GEN Revolution mà tôi quên tên tác giả, không biết có phải của chị Chiara Lubich hay của Pascal Foresi. Ðọc cả cuốn sách và cho đến ngày hôm nay sau hơn 30 năm tôi chỉ còn nhớ một câu mà lúc nào tôi cũng coi như là một nguyên tắc hành động xử thế với mọi người, đặc biệt với những người thân như cha mẹ, anh em, vợ con khi tôi muốn họ thay đổi.  Câu đó là: “Muốn người khác thay đổi, bạn hãy thay đổi chính mình”.
 
Trong suốt 22 năm qua, từ ngày rời Việt Nam, lập gia đình, bon chen với cuộc sống trong công việc hằng ngày, tôi đã trải qua muôn vàn khó khăn, có lúc cao điểm đến nỗi gia đình suýt bị đỗ vỡ, tình gia đình anh em bị mất mát, suýt bị mất việc. Chính câu này đã làm tôi đảo ngược lại thế cờ, nhưng trước khi thành công tôi cũng đã phải trả một giá rất đắt, tôi cũng luôn sống với tâm niệm định nghĩa “kinh nghiệm” của Ðức Cố Hồng Y mà tôi đã nghe khi tôi gặp ngài lần đầu cách đây 37 năm. Trong các buổi nói chuyện vui tươi dí dỏm của ngài, tôi cũng chỉ còn nhớ một ít chủ đề mà tôi vẫn áp dụng trong cuộc sống cá nhân hay trong công việc làm hằng ngày cho đến ngày hôm nay. Những chủ đề mà ngài đã lấy ở Kinh Thánh và phong trào Focolare đã khai thác, đó là: “sống giây phút hiện tại”, “sống theo thánh ý Chúa”, “Chúa Giêsu bị bỏ rơi trên Thánh Giá”, “khi nào có hai ba người họp lại vì danh Ta, thì có ta ở giữa”, “khi nào chúng ta chia sẻ niềm vui cho hai ba người, thì niềm vui chúng ta tăng gấp hai ba lần, khi chúng ta chia sẻ nỗi buồn khổ cho năm mười người, thì nỗi buồn khổ của chúng ta cũng giảm đi năm mười lần”.
 
Tất cả những chủ đề này luôn luôn là một túi hành trang cho cuộc sống của tôi trong gia đình hoặc nơi làm việc. Nên những công việc tôi làm dầu có lương hay không, tôi vẫn luôn làm việc hăng say và nhiệt tình, và thường thường những việc ấy đều thành công tốt đẹp. Tất cả những điều ấy tôi đã học được nơi Ðức cố Hồng Y. Tôi nói lên điều này không phải để tâng bốc người đã chết hay để nịnh bợ gia đình ngài. Cho đến ngày hôm nay tôi chưa từng bước chân đến nhà của Ngài để gặp thăm ông bà cố hay các người em của ngài, tuy từ nhà tôi đến nhà ông bà cố chỉ xa khoảng 30 cây số. Tôi cũng chưa từng liên lạc với các em của Ngài. Nhưng tôi nói lên sự biết ơn của tôi đối với người cha tinh thần của giáo phận, mà ít nhiều tôi đã từng mang ơn và được sự nâng đỡ về tinh thần trong thời gian ngài còn làm việc cho giáo phận và tôi là một đứa con tinh thần. 
 
Ngày hôm nay khi viết vài trang này, tôi mới có dịp nhìn lại quãng đời mấy chục năm qua, tôi nhận thấy tôi đã học hỏi rất nhiều nơi ngài cũng như đã được ngài nâng đỡ. Những gì trong con người của tôi ngày hôm nay cũng một phần lớn đã ảnh hưởng từ những tư tưởng của ngài đúng như lời của một văn hào nào đó hay ngạn ngữ của Pháp: “les idées mènent le monde”.  Khi đầu óc mình thông suốt những tư tưởng, những ưu tư thắc mắc, mình mới đem vào cuộc sống để sống để thực hành những điều mình suy nghĩ ư tư. Tôi đã học qua những cuộc nói chuyện, những lời vui vẻ dí dỏm, những tiếp xúc, những tư tưởng cởi mở phóng khoáng, những sách vở ngài đưa cho đọc nhờ đó tôi thấm nhuần những tư tưởng mới và đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày trong lúc vui cũng như lúc buồn, lúc thành công cũng như lúc thất bại. Tôi nghĩ rằng những lời ngài nói, những việc ngài làm, những chứng từ bằng cuộc sống của ngài trong lúc làm việc cũng như khi ở tù đã đóng góp rất nhiều cho Giáo Hội Việt Nam, đất nước Việt Nam, con dân Việt Nam và Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ. 
 
Sydney ngày 14 tháng 8 năm 2003
Nhân dịp lễ giỗ đầu tiên của Đức Cố Hồng Y  Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận (16 Tháng 9 năm 2003)
 
Nguyễn Ðăng Khoa
Cựu học viên GHHV DL Khóa 11(1968), 
1974 về lại học chung với Khóa 15 (1972)

Tác giả: Nguyễn Ðăng Khoa

Nguồn tin: ngonsu.quetroi.net

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập387
  • Hôm nay70,261
  • Tháng hiện tại803,670
  • Tổng lượt truy cập58,089,539
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây