Lần theo mê lộ có đường hầm của hệ thống tiền tệ Mỹ.

Thứ hai - 21/02/2011 10:21

Tiền.

Tiền.
Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của Chính phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của ông Greenspan. …vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê lộ có đường hầm, một con đường mạng nhện chằng chịt …

Lần theo mê lộ có đường hầm của hệ thống tiền tệ Mỹ

Lời nói đầu

Cả năm qua báo chí Mỹ thường hay nói tới việc mất giá của đồng dollar, tới việc mắc nợ của Chính phủ Mỹ, rồi hay nhắc tới Federal Reserve, và tới tên của ông Greenspan. Tôi không có học ÉcoPo của Pháp, không có học MBA của Mỹ nên mù tịt. Nhưng vì tò mò muốn hiểu biết nên tôi đã cố gắng tìm tòi, học hỏi đó đây. Thì mới thấy rằng vấn đề tiền tệ của Mỹ là cả một mê lộ có đường hầm, (un vrai labyrinthe avec des souterrains), một con đường mạng nhện chằng chịt mà nếu đi không có bảng chỉ dẫn thì sẽ dễ bị lạc.

Rồi tôi nghĩ rằng trong số độc giả của Y tế Nguyệt san chắc cũng có một ít bạn đọc mù tịt như tôi, nhưng không có thì giờ để nghiên cứu đó đây như tôi, nên tôi viết bài này tóm lược và giản dị hóa tối đa một vấn đề vô cùng phức tạp đã kéo dài theo lịch sử của Hoa Kỳ, để giúp phần nào các bạn ấy hiểu sơ sơ vấn đề về đồng dollar là một thực thể mà mình phải đốí phó hàng ngày. Tôi sẽ dùng phương pháp hỏi và đáp để dẫn đường quý bạn đi trên mê lộ và trong đường hầm ấy.

Tôi xin lưu ý quý bạn: Vì trong bài có vài ba cụm từ được nhắc đi nhắc lại nhiều lần nên tôi sẽ viết tắt các cụm từ ấy như sau: FED là Federal Reserve (Ngân hàng Dự trữ Liên bang), CPLB là Chính phủ Liên bang, HCQHK là Hiệp chủng quốc HoaKỳ USA và TT là tổng thống.

I. Tạo ra tiền (create money)

Hỏi: Dollar là tiền chính thức của HCQHK. Vậy ở bên Mỹ cơ quan nào có quyền phát hành dollar?

Đáp: Câu trả lời tự nhiên và thông thường mà cũng hợp lý là Bộ Tài chánh của CPLB. Nhưng trên thực tế thì không hẳn như vậy. Bộ Tài chánh của CPLB chỉ có quyền phát hành “coin” nghĩa là đúc (mint) các đồng tiền kim loại: One Cent, Five Cents, One Dime, One Quarter, và một số đồng tiền One Dollar.

Hỏi: Vậy thì cơ quan nào có quyền phát hành giấy xanh dollar?

Đáp: Chỉ có Federal Reserve (FED) mới có quyền phát hành giấy xanh dollar.

Hỏi: Tôi thấy trên giấy xanh dollar nào cũng có hình của một ông tổng thống Mỹ, cũng có chữ ký tên của “Treasurer of the United States”, và của “Secretary of the Treasury” mà không phải do Department of Treasury của CPLB phát hành là gì ?

Đáp: Vâng, coi vậy mà không phải vậy. Trên giấy xanh dollar nào cũng có in hàng chữ “Federal Reserve Note” mà chữ note ở đây có nghĩa là “a paper acknowledging a debt and promising payment; promissory note”. Tức là tờ giấy xanh dollar nào cũng là một tờ giấy nợ.

Hỏi: Ai nợ ai?

Đáp: Chánh phủ Liên bang nợ FED.

Hỏi: Sao lại có chuyện đó?

Đáp: Số tiền CPLB cần luôn luôn nhiều hơn số tiền thuế của dân đóng góp, nên CPLB phải mượn. Mượn ai? Mượn FED là cơ quan duy nhứt có quyền phát hành tiền dollar. Mượn bằng cách nào? Bằng cách cho phép Bộ Tài chánh (The Treasury Department) in giấy nợ dưới hình thức “Federal Bond” (là giấy IOU - I Owe You), trong đó chính phủ cam kết sẽ trả lại với tiền lời) (mà lãi suất là do FED, chủ nợ, quyết định). FED chấp nhận và in (thí dụ như một tỷ dollar) đưa cho chính phủ. Thế là chánh phủ (tức là quốc gia, là dân Mỹ) nợ FED một tỷ dollars với tiền lời. Rồi mỗi năm tiền nợ đó chồng chất lên nên đến năm 1995 số tiền nợ là 5 trillion (5 ngàn tỷ USD) và đến ngày 16-3-2006 là hơn 8,21 trillion.

Hỏi: FED là một cơ quan của Liên bang, vậy CPLB mà nợ FED thì có khác gì là “Tôi nợ tôi”.

Đáp: Khác, vì FED là một cơ quan mang tên là “Liên bang” (Federal) nhưng không phải của Liên bang. FED là một công ty độc lập của tư nhân (a corporation independent privately owned).

Hỏi: Privately owned thì ai là chủ nó?

Đáp: Federal Reserve (FED) gồm có 12 cái Fed bank địa phương (twelve regional federal reserve banks) mỗi cái thuộc quyền sở hữu của những nhà bank thương

Federal Reserve Building

mại tư thành viên của cái Fed địa phương đó. Các Fed địa phương có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas.

Fed Bank của New York có đa số cổ phần (53% of shares). Mà trong Fed bank của New York, Citibank và J.P.Morgan Chase Co nắm đa số cổ phần. Citibank là của gia đình Rockefeller và J.P. Morgan Chase Co là của gia đình Morgan. Hai gia đình này và gia đình Carnegie với gia đình Rothschild là thành phần quan trọng nhất của một nhóm người mà học giả Mỹ gọi là “the Robber Barons” (những Nam-tước Trộm cắp).

Hỏi: Nhưng trong Ban quản trị (Board) của FED ở Washington có ông Bộ trưởng Tài chánh (the Treasury Secretary) và ông Giám sát Ngân khố (the Comptroller of Treasury) là nhân viên chánh phủ.

Đáp: Vâng, vì vậy mà trên các giấy xanh dollar có chữ ký tên của hai ông này. Và TT Mỹ cũng bổ nhiệm (với sự chấp thuận của Thượng viện) ông Chủ tịch Hội đồng Quản trị (Chairman of The Governing Board) của FED, cho nên FED được coi như là một cơ quan “gần như chính thức” (quasi-governmental). Hội đồng này gồm có 7 người, với nhiệm kỳ là 14 năm, mà TT chỉ có quyền thay thế một người mỗi hai năm.

 

Như vậy, thí dụ như có một ông TT. muốn sửa đổi FED theo ý của ông, thì trong nhiệm kỳ 4 năm của mình, ông chỉ thay thế được có 2 người (vì ông chỉ có quyền thay thế một người mỗi 2 năm). Thôi thì cho rằng ông ấy là một ông TT tài ba lỗi lạc, vượt qua được những khó khăn và những chống đối mà ông đã gây ra (vì quan niệm muốn sửa đổi FED), trong hàng ngũ dân biểu và nghị sĩ của cả hai đảng, trong chính trường và trong báo chí, để ông được đắc cử một nhiệm kỳ thứ hai, thì ông sẽ bổ nhiệm được 2 người nữa trong Governing Board (nếu được Thượng viện chấp thuận) thì cho đến gần cuối nhiệm kỳ 2, ông mới đưa ra được một dự luật sửa đổi, mà chưa chắc dự luật ấy sẽ có được số phiếu cần thiết ở hai viện để trở thành một đạo luật trước khi ông phải rời khỏi Nhà Trắng.

Mặt khác Ban Quản trị (Board) không kiểm soát được cả 12 Fed bank địa phương và các Fed bank địa phương phải theo chính sách của Fed Bank New York nắm đa số cổ phần. Vả lại FED kể từ khi thành lập cho tới nay chưa bao giờ bị chánh phủ “audit” (kiểm toán) vì năm 1975 dự luật (bill) H.R.4316 cho phép chính phủ “audit” FED, được đưa ra Quốc hội, nhưng dự luật không thông qua được vì không đủ phiếu.

Hãy xem như ông Alan Greenspan đang làm giám đốc công ty (corporate director)


Alan Greenspan 

cho J.P. Morgan, thì được TT Reagan bổ nhiệm năm 1987 làm Chủ tịch của FED, giữ chức đó gần 19 năm, đến năm 2006 dưới thời TT George W. Bush mới về hưu. Nghĩa là đã làm Chủ tịch HĐQT FED với bốn TT mà trong lúc tại chức ông không bao giờ có họp báo, không bao giờ cho phỏng vấn, tức là không có việc hỏi han chất vấn lôi thôi.

Hỏi: Trở lại đồng dollar. Bây giờ tôi mới biết rằng CPLB chỉ có quyền đúc coin, còn quyền phát hành giấy xanh là của FED, mà FED thì bị các nhà bank tư nắm. Vậy trong tổng số tiền của Mỹ, tỷ-lệ của mỗi thứ tiền là bao nhiêu?

Đáp: Tiền coin của CPLB đúc chỉ chiếm chừng một phần ngàn tổng số tiền của Mỹ, cộng với tổng số tiền giấy xanh của FED phát hành, thành ra cái được gọi là “tiền sờ thấy được” (tangible currency) chỉ có lối 10% tổng số tiền được cung cấp (American Money Supply).

Hỏi: Sao kỳ vậy? Còn 90% kia là tiền gì ở đâu ra?

Đáp: Phần 90% còn lại là tiền ma (phantom money).

Hỏi: Tiền ma là tiền gì?

Đáp: Là tiền không có thật, là tiền được tạo ra từ chỗ không có gì hết (money created from nothing), do cái trò ảo-thuật cho vay (gọi là “loan”) tạo ra.

Hỏi: Thật sự tôi không hiểu được.

Đáp: Thực ra thì cũng không có gì khó hiểu cho lắm. Trò ảo thuật tạo ra tiền từ con số không (create money out of nothing) dựa trên cái gọi là “fractional reserve banking” do đạo-luật tạo ra FED (Federal Reserve Act) cho phép. Theo đó thì khi mà nhà bank có trong kho của nó một số tiền X là tiền thật (hồi xưa là vàng, bây giờ là giấy xanh) được coi như là để dự-trữ (reserve), thì nó có quyền phát ra 10 X (tức là có 9 X tiền ma, không có bảo đảm reserve).

Thí dụ như tôi gởi vào nhà bank trong checking account của tôi 10.000 USD thì nhà bank để số tiền đó trong kho của nó như reserve, và nó có quyền phát ra 100.000 USD (tức là trong đó có 90.000 USD là tiền ma, vì không có reserve bảo đảm). Cũng như thế, anh B để vào bank trong tài khoản tiết kêịm (saving account) 20.000 USD, thì nhà bank có quyền phát ra 200.000 USD (tức có 180.000 USD là tiền ma). Tổng cộng nhà bank có quyền phát ra 300.000 USD mà trong đó có 270.000 USD là tiền ma. Rồi khi anh C đến mượn nhà bank 300.000 USD (để mua nhà, sửa nhà hay làm gì khác) thì nhà bank cho ảnh mượn (dưới hình thức loan) 300.000 USD đó. Anh C sẽ trả cho nhà bank số tiền đó cộng với lời (x %) dưới hình thức mortgage (thế chấp) hàng tháng, trong 15 hoặc 30 năm chẳng hạn, bằng tiền dollar thật, mà anh C có được nhờ lương của anh C, hoặc nhờ việc làm (như phòng mạch) của anh. Tức là nhà bank, nhờ cái ảo thuật của “loan” đã “create money out of nothing”.

Thí dụ trên là lấy cá nhân A, B, C làm mẫu, nên chỉ nói tới tiền với con số ngàn, nếu là nhà buôn, là nhà hàng, là hãng, là cơ sở sản xuất, thì tiền phải là tới số triệu. Mà cả HCQHK có hằng bao nhiêu triệu cá nhân, nhà buôn, hãng, xưởng v.v. cần tiền và phải vay tiền của nhà bank dưới hình thức “loan” thì không có gì lạ khi thấy rằng trong tổng số tiền cung cấp cho nền kinh tế Mỹ (American money supply) năm 2005 là 9.700 tỷ USD trong đó tiền thật (tangible currency) chỉ có 1.400 tỷ, còn 8.300 tỷ là tiền ma. Và sau này nguyên tắc đó cũng được áp dụng cho việc dùng thẻ tín dụng credit card (Visa, Master Card, American Express v.v.) với một lãi suất (% interest) còn cao hơn gấp bội.

Con hydra

II. Một chút lịch sử.

Hỏi: Từ đâu, tại sao, và từ hồi nào mới có cái quái thai đó?

Đáp: Anh nói là “quái thai” thì cũng đúng, nhưng giới học giả Mỹ thường ví FED như một con “hydra”. Theo từ điển, hydra là một con rắn có chín đầu (trong thần thoại) hễ chặt đầu này thì nó mọc đầu khác, và nó có nhiều cái vòi (tentacles) rất dài để bắt mồi từ xa. FED (con hydra dưới hình thức hiện tại) sanh ra nhờ cái Federal Reserve Act năm 1913 do TT Woodrow Wilson ký (về sau ông ta hối tiếc). Còn từ đâu và tại sao có nó thì phải xem lại hết cái lịch sử của HCQHK vì trong dĩ vãng nó cũng đã bị chặt đầu nhiều lần, mỗi lần lại sống lại với một tên khác.

Hỏi: Anh có thể tóm tắt cho chúng tôi biết một chút không?

Đáp: Tôi sẽ cố gắng tóm lược tối đa một câu chuyện dài mấy thế kỷ và chiếm vài trăm trang trong mỗi cuốn sách nói đến chuyện ấy mà tôi có dịp đọc.

Ở trung học, chúng ta học trong sách rằng HCQHK hồi xưa là 13 thuộc địa của Anh Quốc. Đến năm 1774, để phản đối việc mẫu quốc Anh đánh thuế vào trà (tea tax), một buổi tiệc trà được tổ chức ở Boston (Boston Tea Party). Trong dịp đó một số người Mỹ giả làm người da đỏ nhảy lên tàu chở trà và vất các thùng trà xuống biển. Bị chính quyền cai trị đàn áp, những đoàn dân quân được thành lập để chống trả lại, và ông Benjamin Franklin triệu tập một hội nghị gọi là Congress ở Philadelphia để đưa ra “Bản Tuyên ngôn quyền của người Mỹ có đóng thuế” (Delaration des Droits du Contribuable Americain) năm 1774. Sau đó, với sự chiến thắng của đoàn dân quân của Massachusetts, Congress cho ra Bản Tuyên ngôn Độc lâp (Déclaration d’Indépendance ngày 4-7-1776). Rồi dưới sự chỉ huy của Tướng George Washington, quân Mỹ đánh thắng quân Anh dưới quyền Tướng Cornallis ở Georgetown năm 1781, và theo Hòa ước Versailles năm 1785, Anh Quốc công nhận cho HCQHK độc lập.

Nhưng sau này một số học giả, sau khi đọc kỹ lại những tác phẩm của chính ông Benjamin Franklin viết hồi thời ấy, mới thấy là sự thật phức tạp hơn nhiều.

1. Vì không có tiền vàng hay bạc, nên kể từ năm 1691, các thuộc địa của Anh trên đất Mỹ phát hành tiền giấy gọi là “Colonial Scrip” để trả lương cho công chức và để cho dân xài trong việc mua bán trao đổi hàng hóa trả tiền công v.v. Mà người chủ nhà in lại chính là ông Benjamin Franklin, người làm việc cho dân, vì dân, không tìm cái lời cái lợi trong việc in giấy bạc nên chỉ phát hành đúng theo nhu cầu, cần bao nhiêu thì phát hành bấy nhiêu, nên không cần lấy thuế của dân để chính phủ có tiền, mà không tạo ra sự lạm phát (inflation) hay sự kém phát (deflation) nên giá sản vật và giá công (product and service) vẫn được điều hòa và thăng bằng, nhờ vậy mà các thuộc địa trở nên rất phồn thịnh, không có thất nghiệp, không có ăn mày, trong lúc mà ở London của mẫu quốc ngoài đường có đầy ăn mày và người đi lang thang lêu lỏng (The streets are covered with beggars and tramps). Do vậy các chủ nhà bank Anh (the British bankers) lobby (vận động) triều đình, nên năm 1751, vua George II ra lệnh cấm các thuộc địa phát hành tiền giấy, mà phải dùng tiền “coin” của mẫu quốc (do các nhà bank Anh đã hợp thành một thể dưới tên là Bank of England phát hành). Vua George III kế vị vua cha từ năm 1752 giữ nguyên lệnh ấy. Các thuộc địa bị ảnh hưởng tai hại. Vì thiếu tiền coin (do mẫu quốc siết để tạo sự kém phát - deflation), người làm ruộng hay trồng tỉa không có đủ tiền mướn người làm nên lúa không ai gặt, trái không ai hái. Người có hãng xưởng không đủ tiền mướn thợ, hàng hóa không được sản xuất. Cả dân trong một vùng đất rộng lớn của 13 thuộc địa bị nghèo đói, không gia đình nào không bị ảnh hưởng, nên họ đứng lên chống đối chính quyền và đó là nguyên do sâu xa của cuộc Cách mạng Mỹ năm 1774. Cái”Boston Tea Party” chỉ là giọt nước làm tràn cái bình.

2. Việc đầu tiên Congress làm là phát hành tiền giấy được gọi là “the Continental” dưới hình thức IOU (I owe you), nghĩa là giấy nợ mà chíánh phủ cách mạng cam kết sẽ trả lại bằng tiền coin (vàng hay bạc) sau này. Có chừng 200 triệu dollar dưới hình thức “continental scrip” được phát hành để chi phí cho cuộc chiến giành độc lập. Mẫu quốc phản ứng bằng cách in tiền giả để đổ ào ạt vào thị trường các thuộc địa, gây ra môt cuộc đại-lạm-phát, làm cho đến ngày độc lập tiền “the Continental” hầu như không còn giá trị gì hết. Thế là mẫu quốc thua trên chiến trường, nhưng thắng trên mặt trận kinh tế (dính liền với tài chánh).

Tiền Continental mệnh giá 1/3 USD.

 

Continental scrip 

3. Vì thấy tiền Continental gần như không còn giá trị, nên các nhà “Quốc phụ lập quốc (the Founding Fathers) không còn tin tưởng nơi giấy bạc, nên trong Hiến pháp được viết ra, các ngài không nói tới tiền giấy mà ghi rằng Congress có quyền “coin money” (thay vì “create money”) và có quyền vay tiền dựa trên uy tín của chính phủ (“and to borrow money on the credit of the United States). Các nhà bank của mẫu quốc Anh cũ, là các ngân hàng tư nhân Anh Quốc xâm nhập vào HCQHK tạo dựng US Bank theo mẫu của England Bank. Mà England Bank từ thời thành lập cho đến ngày hôm nay là do các nhóm tài phiệt tư nhân gốc gác Hà Lan nắm và chính các nhóm này xâm nhập vào hệ thống US Bank, khai thác lỗ hở to tát đó (the enormous loophole) mà nói rằng chiếu theo Hiến pháp, chính phủ chỉ có quyền phát hành coin và nhà bank có quyền phát hành tiền giấy. Vì tiền coin thì cồng kềnh và quá nặng khi cần tới nhiều, nên nhà bank in giấy cam kết sẽ trả lại đúng số coin (bằng vàng hay bạc) ghi trên giấy, và người dân chấp nhận coi những giấy ấy như là tiền.

4. Rồi với thời gian qua, các nhà bank để ý rằng rất ít người trở lại nhà bank để đòi lấy lại đồng tiền coin. Trung bình hàng năm chỉ có độ 10% người làm việc đó, còn 90% người còn lại thì không bao giờ thấy đến đòi lấy lại tiền coin. Bởi vậy nhà bank nghĩ rằng mình có thể phát hành thêm 90% nữa mà không sao. Đó là nguồn gốc của cái gọi là “fractional reserve” dẫn tới việc phát hành tiền ma.

5. Tổng thống Thomas Jefferson (1801-1809), vị TT thứ ba của Mỹ, thấy cái nguy hại cho đất nước và gọi liên đoàn các nhà bank (the banking cartel) là ”một con quái vật ăn thịt ngưởi có cái đầu của con hydra” và ông nói rằng “Nếu dân Mỹ để cho nhà bank kiểm soát việc phát hành tiền tệ của mình, thì trước hết bằng sự lạm phát (inflation) rồi bằng sự kém phát (deflation), các nhà bank và các công ty (corrporation) sẽ phát triển và tước đoạt hết tài sản của dân, thì con cháu chúng ta sẽ thức dậy vô gia-cư, trên cái lục địa mà cha mẹ của chúng đã chiếm được.” Nên năm 1811, Congress không chấp nhận tái bản cho đặc quyền (renew the charter) cho First U.S.Bank. Hậu quả chiến tranh với Anh Quốc (the War of 1812) bùng nổ. Chiến tranh đưa quốc gia đến sự lạm phát (inflation) và nợ nần (debt). Vì những lý do đó, Tổng thống James Madison (1809-1817), vị TT thứ tư của Mỹ, phải ký một đặc quyền 20 năm (a twenty year charter) cho Second Bank of The United States vào năm 1816.

6. Tổng thống Andrew Jackson (1829-1837), vị TT thứ bảy của Mỹ, phú quyết (veto) dự luật của Congress cho phép tiếp tục ban đặc quyền cho Second Bank of the United States. Trong bản veto, ông viết: ”Không có cái gì nguy hại cho sự tự do và độc lập của chúng ta hơn là khi mà hệ thống nhà bank nằm trong tay của người ngoại quốc. Kiểm soát tiền tệ của chúng ta, lấy tiền của dân ta, và bắt cả ngàn công dân của chúng ta phải lệ thuộc, thì còn đáng sợ hơn và nguy hiểm hơn là một thủy binh hay một quân đội của địch”.

 

Nhưng ông cũng biết cái veto chỉ là bước đầu của cuộc chiến với nhà bank nên ông nói: “Con hydra của sự đồi bại mới bị chận lại chớ chưa chết”. Ông ra lệnh cho Bộ trưởng Tài chánh (Treasury Secretary) mới của ông chuyển hết tiền deposit của chính phủ từ Second US Bank qua các nhà bank của tiểu bang (state bank). Nhưng ông này từ chối không làm. TT bèn cách chức ông ấy, và bổ nhiệm một người khác Ông này cũng từ chối không làm thì TT Jackson bổ nhiệm người thứ ba. Ông này thi hành lệnh nên TT Jackson vui mứng mà nói: “Tôi đã trói được con quái vật rồi”. Nhưng ông chủ nhà bank  lobby được Thượng viện không chấp thuận người được tổng thống bổ nhiệm và gây ra một cuộc khủng hoảng kinh tế với việc siết chặt sự cung cấp tiền, để tạo ra một sự kém phát (deflation) bằng cách hồi (call in) các “loan” cũ, không cho thêm “loan” mới, nên một sự hoảng hốt tài chính (a financial panic) xảy ra trong dân chúng, thì báo chí lại trút tội xuống đầu tổng thống Jackson. Nhưng may thay, Thống đốc bang Pennsylvania (là nơi có trụ sở của nhà bank) xuất hiện để ủng hộ TT Jackson và phê bình nhà bank rất gắt gao và kế hoạch làm lũng đoạn kinh tế của nhà bank bị phơi bày trước công chúng.

Cho nên đến tháng 4-1834, Hạ Viện (House of Representatives) với 134 phiếu thuận

  House of Representatives 

và 82 phiếu chống, đã hủy bỏ việc tái bản đặc quyền (rechartering) cho Second U.S. Bank. Đến tháng 1-1835 thì TT Jackson trả được hết các khoản nợ của chính phủ. Rồi ngày 30-1-1835, khi TT Jackson đến Capitol để dự tang lễ của Dân-biểu Warren R. Davis của South Carolina thì ông bị mưu sát bởi một tên thợ sơn “điên”(?) núp trong một phòng lớn hình tròn cách ông có sáu feet, nhưng bắn hai phát đều trật. Nhưng sau khi TT Jackson đóng cửa nhà bank trung ương (Central Bank) thì tiền giấy được dùng là những banknote của của các nhà bank tư của các tiểu bang, hứa sẽ trả lại bằng vàng hay bạc chớ không phải là tiền của quốc gia (national currency).

7. Sau TT Jackson, ông tổng thống dám đánh con hydra tiền tệ là TT Abraham Lincoln (1861-1865), vị TT thứ 16 của Mỹ. Liền sau khi ông đắc cử và trước khi ông nhậm chức thì Nội chiến Nam-Bắc (The Civil War) bùng nổ (1860) vì vấn đề “nô lệ” (slavery). Các nhà bank của vùng Đông (tức là thuộc về Union) đề nghị cho chính phủ vay 150 triệu USD với lãi suất quá nặng từ 24 tới 26%. T T Lincoln từ chối và quyết định chính phủ sẽ in tiền lấy. Tiền in ra có tên chính thức là “United Note’ nhưng dân chúng quen gọi là “Greenback” vì phía sau in bằng mực màu xanh lá cây. Tiền được quan niệm không phải là một giấy nợ (IOU) với cam kết trả lại bằng vàng hay bạc, mà là một tờ giấy chứng nhận công lao cho xã hội. Công lao sản xuất (product) từ lúa gạo, trái cây cho tới vải sồ và vật dụng, công lao dịch vụ (service) từ thợ, cai, đến giám đốc, công lao bảo vệ an ninh trật tự, và gìn giữ đất nước, từ lính cảnh sát đến lính và sĩ quan trong quân đội, công lao điều khiển bộ máy cai trị, từ thư ký đến giám đốc đến nguyên thủ quốc gia. Lãnh lương là lãnh giấy chứng nhận công lao, để mua thức ăn đồ dùng là trao giấy chứng nhận công lao của mình để nhận lấy món hàng được sản xuất với công lao tương đương của người bán.

Vì tiền được in ra vừa đúng nhu cầu của dân, cho dân, và vì dân, chớ không phải cho hay vì tư lợi nào hết, cũng như hồi thời ông Benjamin Franklin lúc Hoa Kỳ còn là 13 thuôc địa phồn thịnh, nên trong có bốn năm tại chức mà ngoài việc chiến thắng loạn miền Nam được Anh giúp tiền, và việc giải phóng bốn triệu người nô lệ, TT Lincoln đã thực hiện cho nước Mỹ những công tác vĩ đại như: xây dựng và võ trang một quân đội lớn nhất thế giới lúc bấy giờ, biến Hoa Kỳ thành một nước kỹ nghệ khổng lồ (industrial giant), kỹ nghệ thép (steel industry) được thành lập, một hệ thống hỏa xa xuyên lục địa được xây dựng, Bộ Canh nông được thành lập để thúc đẩy việc chế tạo máy và dụng cụ làm ruộng rẻ tiền, một hệ thống đại học miễn phí được thành lập nhờ Land Grant College System, lập lên những bộ máy hành chánh cho các vùng miền Tây, tăng mức sản xuất lao động (labor productivity) lên từ 50 đến 75 %. Tất cả những việc ấy thực hiện được là nhờ có một việc rất giản dị là chính chính phủ phát hành tiền. Tức là cái đầu của con hydra tiền tệ đã bị TT Lincoln chặt.

Nhưng đến ngày 14-4-1865 thì một kịch sĩ tên là John Wilkes Booth ám sát TT Lincoln trong lúc ông đang xem tuồng hát Our American Cousin trong rạp hát Ford’s Theatre ở Washington. Thế là con hydra lại có cơ mọc đầu lại. Và đầu nó mọc lại thật, vì dân vẫn thích có tiền vàng nên tiền greenback mất giá dần dần đối với đồng tiền dollar vàng. Các nhà bank phát hành banknote bảo đảm trả lại bằng vàng. Dân chúng tin nên dùng những banknote đó như tiền thật, cho tới năm 1913 thì một con hydra mới xuất hiện nhờ luật Federal Reserve Act 1913.

III. Tân hydra chào đời.

Hỏi: Tại sao có luật đó?

Đáp: Vì năm 1907 xảy ra một cuộc “Hoảng loạn Tài chính” (a Financial Panic) nên năm 1908 TT Theodore Roosevelt (1901-1909), vị TT thứ 26 của Mỹ, cho thành lập cái National Monetary Commission để chỉnh đốn vấn đề tài chính. Chủ tịch của commission đó là ông Nghị sĩ Nelson Aldrich (bên ngoại của David Rockefeller Sr.). Ông Aldrich dẫn cả commission đi công du sang châu Âu để nghiên cứu trong vòng hai năm. Rồi khi trở về, ông lập lên, một cách hoàn toàn bí mật, một nhóm bị gọi là “The First Name Club” vì cấm triệt để không được nhắc tới Last Name (họ) để cho đầy tớ và người làm, dù có nghe trộm được cũng không biết là ai, hòng tránh nói lại cho người ngoài và báo chí biết là có những ai. Nhóm đó gồm có một số người được chọn lọc rất cẩn thận trong giới tài chính và ngân hàng. Trong số đó người đóng vai quan trọng nhất là ông Paul Warburg (1868-1932), người gốc Đức di cư sang Mỹ năm 1904, được nhập quốc tịch Mỹ năm 1911, và là thành viên của ngân hàng Kuhn, Loeb and Company Bankers ở New York (thuộc tài sản của Rothschild).

“First Name Club” được triệu tập đến một hòn đảo nhỏ bé, riêng biệt và vắng vẻ có tên là đảo Jekyll Island, ở Georgia, họp trong chín ngày liên tiếp, để viết một dự luật cải tổ hệ thống nhà bank và luật pháp tiền tệ (the banking and currency legislation) sẽ trình cho Congress (Quốc hội).

G7 finance ministers and central bank governors  

Hỏi: Trong dự luật có cái gì là đặc biệt?

Đáp: Có rất nhiều cái đặc biệt. Trước hết là cái tên: vì dân đã quá ghét nên phải tránh cho kỳ được cụm từ “Central Bank“, rồi phải làm sao cho dân tưởng rằng cơ quan này là của chính phủ, do nhân viên chính phủ điều khiển vì vậy mà có danh từ “Federal” và “Reserve“ (chớ không phải là Central Bank) và có Governing Board mà ông chủ tịch là do TT bổ nhiệm, và trong đó có hai nhân viên chính phủ, mà trong thực tế thì Governing Board không có điều khiển được chính sách của cơ quan. Rồi phải dùng những danh từ mờ ám khó hiểu để che giấu thực ý: như trong Lời mở đầu (Preamble) của dự luật nói: Mục đích của luật là để cho FED có thể “cung cấp một thứ tiền co dãn” (to furnish an elastic currency) - nghĩa là gì?

Trong thực tế nghĩa là tiền mà nhà bank đã có thì nhà bank có thể, tùy nghi, thổi phồng lên. Rồi như danh từ “tái chiết khấu “(rediscounting) nghỉa là gì? Trong thực tế nghĩa là một kỹ thuật cho phép nhà bank dùng để tăng gia tiền hiện có trong quỹ của nó, bằng cách cho vay thêm mà không cần chờ cho tới khi các khoản nợ trước hết hạn. Kết quả là luật cho phép một nhà bank trung ương tư (a private central bank) tạo ra tiền từ chỗ không có gì hết (create money out of nothing) rồi cho chính phủ vay số tiền đó để lấy lời và kiểm soát sự cung cấp tiền cho quốc gia bằng cách bơm phồòng nó lên hay hút bớt nó xuống tùy theo ý muốn (control the national money supply, expanding or contracting it at will.)

Hỏi: Thế mà không có ông nghị sĩ hay dân biểu nào thấy sao?

Đáp: Có chớ. một số thấy và la làng lên. Như ở Hạ viện, Dân biểu Charles Lindbergh Sr. (bố của phi công trứ danh Lindbergh) nói:” Luật tạo ra FED là một cái tội pháp luật tệ hại nhứt của mọi thời đại. Hệ thống tài chánh đã bị lật lại cho một nhóm người chỉ có biết lợi dụng hệ thống là của tưnhân, được hướng dẫn về mục tiêu duy nhứt là lấy cho được những cái lợi tối đa từ việc sử dụng tiền của người khác”.

Và cũng còn một số dân biểu và nghị sĩ khác nữa la làng lên nhưng họ không đủ để đánh bại số dân biểu và nghị sĩ đã bị mua chuộc, đúng như lời của một người trong nhóm Rothschild ở London nói với một hội viên của nhà bank ở New York ngày 25-6-1863 rằng: “Số nhỏ người hiểu cái hệ thống là gì, thì hoặc là vì thấy có lợi cho mình, hoặc là vì đã tùy thuộc vào những ân huệ đang được hưởng, nên sẽ không có sự chống đối từ những hạng người đó. Còn nhóm đa số người không có đủ trí khôn để hiểu thì sẽ chịu cái gánh nặng mà không than phiền”.

Bởi vậy cho nên ngày 18-9-1913, dự luật được Hạ viện chấp thuận với 287 phiếu thuận và 85 phiếu chống, rồi lên Thượng viện thì ngày 19-12-1913, dự luật được chấp thuận với nhiều sửa đổi bằng 54 phiếu thuận và 34 phiếu chống. Đến đây lại có một việc lạ nhất chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử của HCQHK, là trong cái bản văn của dự luật ở Hạ viện có cho tới 40 điểm mà Thượng viên không đồng ý nên đã sửa lại. Thì sau khi Thượng viên biểu quyết, hai viện phải ngồi chung lại để sửa lại sao cho cả hai bên đều đồng ý. Thế mà việc đó được thực hiện chỉ có trong một weekend. Cho nên ngày thứ Hai 22-12-1913, dự luật được biểu quyết ở Hạ viện với 282 phiếu thuận và 60 phiếu chống rồi cùng ngày sang Thượng viện được chấp thuận luôn với 43 phiếu thuận và 23 phiếu chống. Và TT Woodrow Wilson (1913-1921), vị TT thứ 28 của Mỹ ký thành Luật ngay ngày hôm sau, thứ Ba 23-12-1913.

Tất cả những việc ấy xảy ra một cách hết sức mau lẹ và trái ngược với tục lệ và truyền

T.T. Woodrow Wilson 

thống của Quốc hội và của Chính phủ Mỹ là không bao giờ Lập pháp Congress (Thượng và Hạ Viện) thảo luận và biểu quyết một dự luật vào lúc gần Noel, để cho Congress “recess” (thường thường là kể từ ngày 15, 17-12.) và các nghị sĩ và dân biểu về quê của mình ăn mừng Christmas và New Year, và không bao giờ Hành pháp (Chính phủ) ký một đạo luật vào dịp Noel để cho TT về nhà riêng hay trang trại (ranch) của mình ăn mừng Christmas và New Year. Thế mà kỳ này Thượng viên họp lại, thảo luận, và biểu quyết vào ngày thứ Sáu 19-12. Rồi cả hai viện làm việc với nhau weekend 20 và 21-12, để ngày thứ Hai 22-12 cả hai viện, hợp lại, thảo luận và biểu quyết dự luật, và ngày thứ Ba 23-12, TT ký thành luật.

Dân Biểu Lindbergh nói ở Hạ viện: “Dự luật này thành lập cái “trust” khổng lồ nhất trên thế giới. Khi mà TT ký cái dự luật này (thành Luật), thì cái chính phủ vô hình của Mãnh lực tiền tệ sẽ được hợp pháp hóa. Dân chúng có thể không biết chuyện đó ngay, nhưng mà rồi sự biết được chuyện chỉ được dời lại vài năm sau mà thôi”. Trong lúc đó thì báo chí (đã ở trong tay của “Mãnh lưc tiền tệ”) thì ca tụng hết lời. Báo New York Times viết bằng chữ lớn ở trang đầu: “Tổng thống Wilson ký Dự luật Tiền tệ. Sự phồn thịnh được tự do và sẽ giúp mọi giai cấp."

Hỏi: Thế là con hydra được khai sinh là đứa con hợp pháp của HCQHK để lớn lên với đất nước?

Đáp: Hay đúng hơn thì phải nói “để lớn lên với đứa em song thai”.

Hỏi: Nói gì lạ vậy, đứa em song thai nào?

Đáp: Khi nhóm của Nghị sĩ Nelson Aldrich có ông Paul Warburg chuẩn bị viết dự luật FED để trình cho Congress, họ đã tiên đóan rằng với sự áp dụng luật này thì CPLB sẽ mắc nợ FED càng ngày càng nhiều nên phải tìm cách làm sao cho phép chính phủ đánh thuế vào dân để có tiền trả nợ cho FED. Vì thế họ kèm theo dự luật FED một Tu chỉnh Hiến pháp (là the Sixteenth Amendment) cho phép CPLB đánh thuế lợi tức (income tax) vào dân. Lúc ấy bản văn của Tu chỉnh chỉ có một trang giấy và nguyên bộ luật về thuế má chỉ có 14 trang mà bây giờ thì nó dày đến 17.000 trang, cũng như nợ của chính phủ do FED gây ra lớn lên từ số không cho tới bây giờ là 8.500 tỷ USD.

Hỏi: Bộ trước đó dân không phải đóng income tax cho CPLB sao?

Đáp: Không, trước 1913, dân chỉ đóng thuế income cho tiểu bang của mình mà thôi.

Hỏi: Đã được hợp pháp hóa rồi, con hydra còn phá phách gì nữa không?

Đáp: Nói là phá phách thì không hẳn là phá phách, nhưng khi được hợp pháp hóa rồi thì FED hoạt động tích cực hơn, nên gây tai nạn cho dân.

Hỏi: Tai nạn gì?

Đáp: Cuộc Đại suy thoái (The Great Depression) năm 1930.

Hỏi: Bằng cách nào?

 T.T.Franklin D.Roosevelt 

Đáp: Bằng cách tạo ra tiền “out of nothing” qua trò ảo thuật “loan”. Để khuyến khích dân vay tiền, FED hạ thấp lãi suất và dân ùn ùn vay để có tiền tiêu xài thả ga. Vậy là nhà bank thảy vào nền kinh tế quốc gia một số tiền khổng lồ, tạo ra một cuộc lạm phát (inflation). Rồi nói là để kiềm hãm sự lạm phát, thì lại siết chặt việc cung cấp tiền, thu hồi các loan đả phát ra, không cho vay loan mới, báo hại dân thiếu nợ phải vội vàng bán nhà cửa ruộng đất để trả nợ, nên những người có liên hệ với “Mãnh lực tiền tệ (Monetary Power) có tiền mua những bất động sản ấy với giá rẻ mạt. Còn con cháu những người thiếu nợ thì trở nên vô gia cư vô nghề nghiệp đi lang thang thất thểu ngoài đường như hồi Mỹ còn là 13 thuộc địa dưới thời các vua George II và vua George III, trước ngày Cách mạng Mỹ (American Revolution) năm 1774. Nhưng nhờ chính sách “New Deal” của TT Franklin D.Roosevelt (1933-1945), vị TT thứ 32 của Mỹ, và việc lập lên cái FDIC (Federal Deposit Insurance Corporation) mà tình thế trở lại yên ổn. Giáo sư Milton Friedman, Giải Nobel về kinh tế, viết: “Nhất định là FED đã gây ra cuộc Đại suy thoái vì thu rút lại một phần ba (1/3) số tiền đang lưu hành từ năm 1929 tới năm 1930”.

Còn ông Louis T. McFadden, Chủ tịch The House Banking and Currency Commttee, thì nói: “Cuộc khủng hoảng không phải là ngẫu nhiên mà là một việc được trù liệu rất cẩn thận… Những chủ nhà bank quốc tế tìm cách đem đến đây sự thất vọng để rồi họ có thể trở thành nhưng kẻ ra lệnh cho tất cả chúng ta.”

Hỏi: Thế rồi kể từ đó không có ông TT nào dám đụng tới FED nữa?

Đáp: Có chớ, TT John F. Kennedy (1961-1963), vị TT thứ 35 của Mỹ. Ngày 4-6-1963, TT Kennedy ký một sắc lệnh (an Executive Order số 11110) cho phép CPLB phát hành tiền mà không phải qua FED bằng cách cho phép Bộ Tài chính phát hành những giấy chứng nhận bạc đối với mọi thỏi bạc, bạc, hay là mọi dollar dựa trên bản vị bạc của Bộ này (the power to issue silver certificates against any silver bullion, silver or standard silver dollars in the Treasury). Nghĩa là một khi Bộ Tài chính có trong kho một ounce bạc nào, thì bộ có quyền phát hành ra một giấy bạc để lưu hành trong nền kinh tế. Như vậy TT Kennedy đã tung ra 4,3 tỷ dollar cho lưu hành. Hậu quả FED bank của New York sẽ phá sản, vì dân chúng biết rằng các giấy chứng nhận bạc (silver certificates) của chính phủ được bạc yểm trợ (backed by silver) chớ giấy bạc của FED (Federal Reserve Notes) không có cái gì yểm trợ hết. Lệnh số 11110 nói trên còn giúp chính phủ trả hết nợ của mình mà không phải qua FED để trả tiền lời, do FED tạo ra tiền out of nothing. Tức là trên thực tế sắc lệnh số 11110 cho CPLB quyền tạo ra tiền của mình có bạc yểm trợ, đúng theo Điều I, Phần 8 của Hiến pháp Hoa Kỳ.

Năm tháng sau, ngày 22-11-1963, TTKennedy bị tên Lee Harvey Oswald ám sát và tên này hai ngày sau bị Jack Ruby (Rubenstein) giết chết trong Đồn cảnh sát Dallas.

Hỏi: Như thế thì phải chăng là một nhóm tài phiệt cai trị xứ này vì người ta hay nói: “Ai nắm được tiền là nắm được quyền” phải không?

Đáp: Tôi không dám trả lời là phải hay là không (yes or no) vì tôi không đọc được sách nào nói rõ là đã có một tòa án nào kết án một người nào trong giới Mãnh lực tiền uệ (the Monetary Power) hay một vị nào trong nhóm những Nam tước Trộm cắp (the Robber Barons) về tội dùng tiền của mình mua được quyền thế. Cho nên tôi xin để cho quý bạn đọc mỗi người kết luận theo ý kiến của mình.

Tôi chỉ xin phép nhắc lại lời nói của ông Nathan Rothschild hồi năm 1838: “Để cho tôi phát hành và kiểm soát tiền của một quốc gia, thì tôi cóc cần biết ai viết luật pháp”, và tôi cũng xin phép nhắc lại số phận của những vị tổng thống đã có gan dám chặt đầu con hydra tiền tệ: TTAndrew Jackson bị mưu sát, TT Abraham Lincoln và TT John F.Kennedy bị ám sát.

BS. NGUYỄN LƯU VIÊN

Tài liệu tham khảo:

- The Web of Debt của Ellen Hodgson Brown, NXB Third Millennium, Baton Rouge, 2007, http://www.webofdebt.com

- The Secrets of the Federal Reserve của Eustace Mullins, NXB Bankers Research Institute Staunton, 1993

- Modern Money Mechanics được xuất bản bởi the Federal Reserve Bank of Chicago tại http://landru.i-link-2.net

- The Federal Reserve is a privately owned corporation của Thomas D. Schauf. 28-11-1998 tại http://www.apfn.org/

Tác giả: BS. NGUYỄN LƯU VIÊN

 Tags: n/a

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Chuyên mục ủng hộ
CHUYÊN MỤC CHIA SẺ
Thương về Sài Gòn
Ủng hộ Nhà Hưu dưỡng Linh mục Giáo phận Huế
Ủng hộ Miền Trung bị bão lụt 2020
Bão lụt Miền Trung 10/2020
Tin vui giữa mùa đại dịch
Đại dịch Covid-19
Nhà thờ Hương Phú, Nam Đông
Nghĩa tình mùa Xuân Kỷ Hợi
Hỗ trợ mái ấm tình thương Lâm Bích
Ủng hộ Hội ngộ lần 3 Denver, Colorado
Lễ Tạ ơn ĐĐK Đức HY Thuận 2017
Ủng hộ Án phong Chân phước đợt 4 năm 2016
Danh sách ủng hộ Caritas TGP Huế
Ủng hộ Causa Card. Văn Thuận
  • Đang truy cập657
  • Máy chủ tìm kiếm2
  • Khách viếng thăm655
  • Hôm nay91,605
  • Tháng hiện tại971,462
  • Tổng lượt truy cập57,073,099
Hãy đăng nhập thành viên để trải nghiệm đầy đủ các tiện ích trên site
Mã bảo mật
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây